Sở chỉ huy cánh quân Duyên Hải,
trong đó có tiền phương Thiết giáp cơ động ngay sau khối thứ hai của Binh đoàn
Sông Hương. Chiếc xe Bắc Kinh của tư lệnh Đào hôm nay có vẻ như tốt hơn hẳn vì
không phải chốc chốc dừng lại bổ sung nước như dạo trước nữa. Chính ông Đào
cũng nhận ra sự khác lạ này nên sau mấy chục ki- lô- mét đầu, ông bảo Năm:
- Này! Kiểm tra nước làm mát đi
chứ. Nó mà cháy máy nổ là cậu bị kỷ luật đấy!
Nam liếc nhìn Phùng, thấy Phùng
lắc nhẹ đầu, anh nhỏ nhẹ:
- Báo cáo tư lệnh, chắc là do
đường tốt, lại ít dốc nên không hao nước như trước. Tôi vẫn thường xuyên theo
dõi đồng hồ nhiệt độ đấy ạ.
Thực ra, giữa Phùng và Năm có một
bí mật nho nhỏ mà họ không muốn cho thủ trưởng của mình biết. Chiếc xe của tư
lệnh Đào vốn là chiếc Bắc Kinh cũ kỹ đã sử dụng nhiều năm. Cơ quan kỹ thuật
định đổi xe mới cho ông nhưng ông bảo: “tớ thấy vẫn dùng tốt đấy chứ, nếu được
cấp xe mới các cậu hãy ưu tiên cho đơn vị chiến đấu trước đã” nên lại thôi. Tuy
nhiên, có đi công tác đường dài mới thấy hết cái sự già nua của nó. Chẳng biết
két mát của nó đã đóng bao nhiêu cặn nhưng cứ độ ba chục ki- lô- mét là nước đã
sôi lên sùng sục. Vì vậy lúc nào lái xe Năm cũng phải tích trữ vài chục lít
nước để sẵn sàng bổ sung. Biết vậy, hôm được giao ra bán đảo Sơn Trà kiểm tra
tình hình các đơn vị ngoài ấy Phùng nháy Nam lấy thêm một can xăng hai mươi lít
bỏ lên xe. Xong việc rồi, hai thày trò quay về thành phố Đà Nẵng. Đến trước một
cái ga- ra rất to vẫn đang đóng cửa im ỉm, Phùng bảo Năm dừng xe rồi vào gõ
cửa. Người chủ ga- ra mở cửa nhìn thấy anh bộ đội giải phóng súng ngắn kè kè
bên hông thì hốt hoảng ra mặt. Anh ta chỉ bình tâm trở lại khi thấy Phùng ôn
tồn: “Két mát xe chúng tôi có vấn đề, nhiệt độ thường xuyên lên cao. Các anh có
giúp sửa được không?”. Người chủ ga- ra hồ hởi: “Dạ! Chắc là nó bị két nhiều
cặn bẩn. Chúng tôi làm được”. Phùng cẩn thận: “Nhưng chúng tôi không có tiền
đâu, chỉ có…”. Không để anh nói hết lời, người chủ ga- ra đã xua tay: “Không
cần đâu ạ! Chúng tôi làm giúp thôi ạ! Giúp đỡ bộ đội giải phóng là trách nhiệm
của chúng tôi mà”. Anh ta gọi mấy cậu thợ trẻ ra. Họ loay hoay gần một tiếng
thì xong. Không chỉ xúc rửa két mát nước, họ còn bảo dưỡng và điều chỉnh thêm
một số bộ phận nữa. Chiếc xe cũ kỹ như được lột xác, tiếng máy nổ êm hơn hẳn.
Xong việc, Năm xách can xăng vào để trả công. Người chủ ga- ra cứ chối bai bải.
Chỉ đến khi Phùng bảo: “Đây không phải là trả công mà là có chút quà cảm ơn các
anh em đã giúp đỡ” thì anh ta mới chịu nhận. Nhưng thật tình cũng phải công
nhận tay nghề của họ giỏi.
Đường tốt, xe chạy êm như ru. Tư
lệnh Đào ngồi im lặng không tham gia vào câu chuyện sôi nổi của cấp dưới, những
người lần đầu tiên được đặt chân đến đây. Đôi mắt của ông lim dim sau cặp kính
trông như đang ngủ nhưng không phải. Vùng đất này thực ra không quá xa lạ với
ông. Hồi đầu kháng chiến chống Pháp ông đã có mặt trong đoàn quân Nam tiến vào
đến tận Nha Trang. Tuy nhiên, cảnh vật đã thay đổi quá nhiều. Đường sá tốt hơn.
Nhà cửa to đẹp hơn. Phố xá sầm uất hơn. Chỉ còn đó những con người chất phác và
đôn hậu là không thay đổi. Tất nhiên, cũng có những người không mong đợi các
ông. Tuy nhiên, đó chỉ là số ít.
Tưởng như ngủ nhưng thực ra ông
Đào đang tập trung suy nghĩ về trận chiến đấu sắp tới. Mặc dù quân và dân ta đã
giành được những chiến thắng vang dội, giải phóng hoàn toàn quân khu Một và
phần lớn quân khu Hai của địch. Song ở thế “chó cùng dứt giậu”, chắc chắn bọn
địch cẽ chống cự điên cuồng và sẽ làm mọi cách để ngăn bước chân của ông và
đồng đội. Ngày 28 tháng 3 vừa qua, đích thân đại tướng Uây- en, Chủ tịch hội
đồng tham mưu liên quân Hoa Kỳ đã tới Sài Gòn. Sau khi nghe Thiệu báo cáo tình
hình và thị sát một vòng, Uây- en đã cố vấn cho chính quyền Sài Gòn thiết lập
một vành đai phòng thủ để cố giữ phần đất còn lại. Theo hắn, “tuyến phòng thủ Sài Gòn sẽ neo ở thị xã
Phan Rang, lấy Xuân Lộc làm mũi nhọn phòng thủ chính và Tây Ninh là rìa phía
tây” sẽ bảo đảm giữ được Sài Gòn chờ mùa mưa xuống sẽ phản công hoặc chờ
đợi một giải pháp chính trị. Có lẽ viên đại tướng tư lệnh quân viễn chinh Mỹ
cuối cùng ở Đông Dương vẫn còn ôm mối hận phải cuốn cờ trong lòng nên tỏ ra hết
sức hiếu chiến. Ngoài việc đốc thúc quân ngụy xây dựng tuyến phòng thủ hắn còn
điện về Mỹ yêu cầu tổng thống Pho viện trợ khẩn cấp cho Sài Gòn. Những lời kêu
cứu khẩn thiết của Uây- en ít nhiều vẫn được một số giới chức diều hâu trong
chính quyền của tổng thống Pho ủng hộ nên một cầu hàng không từ Băng Cốc đến
Sài Gòn đã được thiết lập. Một khối lượng khá lớn phương tiện chiến tranh đã
được không vận khẩn cấp đến Sài Gòn. Ngoài biển Đông, tàu sân bay Hen- cốc cũng
rập rình như để trấn an thêm tinh thần cho Thiệu và bè lũ tay sai. Dường như đã
gượng lại được sau cơn choáng, lại được quan thầy hà hơi, tiếp sức nên chính
quyền Sài Gòn đã sáp nhập hai tỉnh còn lại của quân khu Hai là Ninh Thuận và
Bình Thuận vào quân khu Ba. Đồng thời thành lập Bộ tư lệnh tiền phương quân khu
Ba do trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy đặt tại Phan Rang. Theo tin tình báo
của ta thì chúng đã tập trung được ở đây 1 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn không
quân, 1 lữ đoàn dù, 1 liên đoàn biệt động quân… Tổng cộng lực lượng địch ở đây
lên đến hơn chục nghìn quân, lại được hỏa lực của tàu chiến ngoài khơi yểm trợ.
Còn ở Xuân Lộc, sư đoàn bộ binh 18 gần như còn nguyên vẹn cùng với liên đoàn
bảo an 936, thiết đoàn 5 và 3 tiểu đoàn bảo an đã được bố trí phòng thủ tại
đây. Trên đài Sài Gòn, hết tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại đến các quan chức
của Bộ Tổng tham mưu ngụy thay nhau hò hét “tử thủ Phan Rang, tử thủ Xuân Lộc”
để lên dây cót cho tinh thần binh sĩ. Thực ra, cái chuyện hò hét suông thì cũng
chẳng cần để ý đến làm gì. Tuy nhiên, nếu không giải quyết nhanh, để địch củng
cố tuyến phòng thủ trở nên vững chắc thì quân ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Nếu
lực lượng phái đi trước của binh đoàn mà không đủ sức đột phá, phải dùng đến
chủ lực ở khối ba thì chưa biết đến bao giờ mới có thể vượt qua. Cái mẹo “dĩ
dật đãi lao” này thì ai cũng biết. Vấn đề bây giờ là phải đánh nhanh, thắng
nhanh.
Nhưng có vẻ như cái ý định đánh
nhanh, thắng nhanh của ta đã không thực hiện được ở Xuân Lộc thì phải. Đã ba
ngày rồi theo dõi chiến sự ở Xuân Lộc, ông Đào biết trận chiến đấu ở đây gặp
rất nhiều khó khăn. Hôm nay là ngày thứ tư quân ta tiến công thị xã đó. Không
biết tình hình thế nào. Vì vậy, khi đoàn xe vừa dừng lại trong một cánh rừng
thưa dưới chân núi Tà Lương, ông Đào đã vội lôi chiếc đài bán dẫn ra mở. Lẹt
xẹt dò qua một loạt đài, tai ông bỗng dỏng lên khi nghe nhắc đến hai tiếng Xuân
Lộc. Ông vội chỉnh lại tần số và vặn to nút âm lượng. Từ trong chiếc đài vọng
ra giọng nói nhão nhoẹt của con mụ phát thanh viên đài Sài Gòn:
“Hôm nay là ngày thứ tư cộng quân tiến hành tiến công thị
xã Xuân Lộc. Mặc dù đã được tăng phái thêm nhiều binh lực nhưng trước sự kháng
cự vô cùng anh dũng của các chiến binh quân lực Việt Nam cộng hòa, cộng quân đã
phải dừng bước ở ngoại vi thị xã, bỏ lại hàng trăm xác chết và nhiều quân cụ,
trong đó có 4 chiến xa T54. Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn bộ binh 18 cho
phóng viên bản đài biết: “Tinh thần binh sĩ VNCH tại Xuân Lộc rất cao, hệ thống truyền tin rất tốt.
Các đơn vị Dù và BĐQ đã đến tăng viện kịp thời. Đồng bào ở Sài Gòn hãy yên tâm
vì Xuân Lộc còn thì Sài Gòn cũng còn”. Ông còn thách thức tướng Hoàng Cầm, tư
lệnh quân đoàn 4 cộng quân tiếp tục tiến công”.
Vẫn
biết rằng thông tin do đài Sài Gòn đưa thì không thể tin tưởng hoàn toàn song
ông Đào vẫn ngồi thừ ra. Như vậy quân ta vẫn chưa đột được qua Xuân Lộc và
nhiệm vụ của cánh quân Duyên Hải này chắc sẽ phức tạp hơn.
*
Vào lúc đó, trong một căn nhà còn
khá nguyên vẹn ở rìa ấp Bảo Vinh A, mấy cán bộ tiểu đoàn tăng 21 đang ngồi chờ chiếc
xe dắt đi cứu kéo xe hỏng và làm công tác thương binh, tử sỹ về. Sau ba ngày
chiến đấu không đạt được kết quả, 4 xe bị mìn và 1 xe sa xuống hố bom phải bỏ
lại trận địa. Đêm nay, họ quyết định sử dụng 3 xe còn lại chi viện cho chiếc xe
dắt bò vào để cứu kéo xe hỏng về. Theo hiệp đồng, còn một tiếng nữa họ mới bắt
đầu nổ súng.
Dưới ánh sáng leo lắt của ngọn
nến nhỏ còn sót lại trên bàn, không khí trong nhà có vẻ rất nặng nề, u ám. Tiểu
đoàn trưởng Khê ngồi ủ rũ bên cạnh cái bàn trông như một pho tượng gỗ. Phía bên
kia bàn, chính trị viên Bào đang lúi húi ghi chép gì đó vào cuốn sổ tay. Tham
mưu trưởng tiểu đoàn thì đang ghé ngồi gà gật bên cạnh chiếc đài 2 oát. Cân và
một cán bộ đại đội 2 thì ngồi im lặng ngay ngoài cửa, mắt dòi nhìn về phía nam,
nơi ba chiếc xe tăng và chiếc xe dắt đang ém sẵn chờ giờ nổ súng. Quả thật, có
quá nhiều điều làm cho họ phải bận lòng. Đây đã là ngày thứ ba tiểu đoàn 21
tham gia tiến công Xuân Lộc. Tuy nhiên, kết quả không những không chọc thủng
được phòng tuyến địch mà lại còn bị thiệt hại nặng nề.
Thực ra, tiếng là một tiểu đoàn
xe tăng nhưng trước khi bước vào trận đánh này toàn tiểu đoàn chỉ còn đúng 12
chiếc. Sở dĩ như vậy là vì sau các trận Phước Long, trận vận động tiến công dọc
đường 20 lên tới tận Bảo Lộc, Di Linh lực lượng của tiểu đoàn phần bị tiêu hao
trong chiến đấu, phần bị hư hỏng do tình trạng kỹ thuật không bảo đảm lại không
được bổ sung kịp thời. Bộ đội thì cũng quá mệt mỏi sau những chặng đường dài cơ
động, chiến đấu liên tục, nhiều đồng chí bị sốt rét hành hạ không nuốt nổi cơm.
Thế nhưng, khi nhận nhiệm vụ tiến công Xuân Lộc ai cũng hào hứng và sẵn sàng
nhận nhiệm vụ vì họ biết rằng nếu nhổ được cánh cửa thép này thì đường về Biên
Hòa và Sài Gòn sẽ không còn xa nữa.
Ấy thế nhưng kết quả lại không
được như mong muốn.
Ngay ngày đầu tiên, hai đại đội 1
và 2 được tung vào trận đánh, đại đội 3 được cử làm đội dự bị. Đại đội 1 phối
thuộc cho một tiểu đoàn bộ binh tiến công ở bắc đường sắt vào khu hậu cứ chiến
đoàn 52. Còn đại đội 2 cũng với bộ binh đánh vào căn cứ thiết đoàn 5 và khu
thông tin ở phía nam đường sắt. Sau màn hỏa lực chuẩn bị của pháo binh, xe tăng
và bộ binh đồng loạt xung phong. Tuy nhiên, cả hai hướng tiến công đều bị địch
ngăn chặn quyết liệt bằng không quân và pháo binh. Trên hướng đại đội 1, bộ
binh không mở được cửa mở nên xe tăng đành phải dừng ở bên ngoài phát huy hỏa
lực bắn vào các mục tiêu bên trong. Kết cục cuộc đấu pháo đó xe 363 bị trúng
một phát tên lửa chống tăng, kíp xe thương vong gần hết. Không xung phong được,
đại đội 1 được lệnh lui về phía sau.
Bên hướng đại đội 2 cũng chẳng
hơn gì. Bộ binh không mở được cửa nên khi đã áp sát hàng rào rồi, xe tăng vẫn
không xung phong được. Chủ động tìm đường vượt qua hệ thống vật cản chống tăng
dày đặc thì lần lượt 3 xe 943, 331 và 949 dính mìn phải nằm lại. Chỉ còn một
mình xe 365 tiến sau kịp dừng lại, lợi dụng địa hình địa vật chi viện cho các
xe kia khắc phục hậu quả nhưng không thành công.
Tối ấy, khi đã lui về vị trí ban
đầu Cân đến gặp tiểu đoàn trưởng bộ binh. Nhìn người cán bộ cũng trạc tuổi mình
trên đầu và một cánh tay băng trắng xóa, Cân không nỡ nói những lời trách móc
mà anh đã nung nấu từ trước. Dường như người cán bộ bộ binh cũng đoán được điều
đó nên anh ta chủ động nói trước: “Anh thông cảm! Gọi là tiểu đoàn thôi chứ anh
biết chúng tôi có bao nhiêu tay súng không? Huy động cả anh nuôi, y tá mới được
hơn trăm đấy. Mà lính đâu có khỏe. Vừa vận động hàng trăm ki- lô- mét từ đường
20 về một cái là lại húc vào đây. Thực tình, cũng không ngờ chúng ngoan cố đến
thế. Cứ tưởng nó sụp đến nơi rồi. Ai ngờ nó vẫn chống cự như điên. Mà sao máy
bay, pháo binh của chúng vẫn mạnh như thế”. Quả có thế thật. Ngay cả Cân và anh
em lính tăng mình cũng tưởng trận này dễ “xơi”, cứ nghĩ sẽ thắng như chẻ tre
như mấy hôm trước đánh lên Bảo Lộc. Mà có lẽ cả cấp trên cũng vậy chăng?
Ngày hôm sau, sư đoàn điện xuống
tiếp tục tiến công. Tuy nhiên, cũng lại như ngày hôm trước. Vừa mới nổ súng
xung phong địch đã cho máy bay, pháo binh ngăn chặn quyết liệt. Dưới làn bom
đạn dày như vãi trấu, bộ binh thương vong nhiều, không còn sức chiến đấu nên
lại phải lui về. Xe tăng không có bộ binh đi cùng cũng phải rút về ấp Bảo Vinh
A. Lần này thì cả tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn bô binh đều bị
thương nặng phải chuyển lên tuyến trên điều trị.
Sang chiều, tiểu đoàn xe tăng đề
nghị đưa đội dự bị vào chiến đấu để tăng cường khả năng đột phá. Cấp trên đồng
ý ngay nhưng do trục trặc trong hiệp đồng chiến đấu mà phải đến sáng ngày hôm
sau mới tiếp tục tiến công được. Tuy nhiên, kết quả chiến đấu ngày thứ ba này
cũng chẳng có gì khả quan hơn. Có lẽ địch đã dồn hết sức ra để ngăn chặn hướng
tiến công chính diện này thì phải. Vừa mới xuất kích đã thấy máy bay lên đen
trời. Phản lực có. Trực thăng có. Rồi pháo, cối, tên lửa chống tăng dường như
được dồn hết về đây thì phải. Và rồi, các mũi tiến công của bộ binh bị chùn
lại. Xe tăng số 350 trúng mìn bốc cháy. Xe 358 sa xuống hố bom không lên được.
Xe 942 trúng tên lửa chống tăng, may không cháy, chỉ có trưởng xe bị thương.
Thế là lại phải lui về.
Có lẽ cấp trên cũng đã nhận ra sự
không hợp lý khi quyết định tiến công trực diện vào nơi địch phòng thủ rắn nhất
nên đã chuyển hướng tiến công vào phía sau quân địch. Tiểu đoàn nhận được lệnh
tìm mọi cách thu hồi xe pháo và củng cố để chuẩn bị cho những trận đánh tiếp
theo. Thực ra, hy vọng kéo được xe về cũng mong manh lắm. Xe bị đứt xích bỏ lại
trên đó cả ngày trời liệu bọn địch có bỏ qua không.
Một loạt pháo bỗng nổ vang cắt
ngang luồn suy nghĩ của mọi người. Tất cả nhào ra phía cửa hướng về phía có
tiếng súng nổ. Tham mưu trưởng tiểu đoàn cũng bừng tỉnh, anh áp sát cáp nghe
vào tai và xách luôn chiếc máy ra ngoài. Từ phía trận địa vọng về tiếng súng
bắn trả loạn xạ của địch, thỉnh thoảng lại được một phát pháo 100 điểm nhịp.
Chợt tham mưu trưởng gọi tiểu đoàn trưởng Khê:
- Anh Khê! Anh nghe báo cáo này.
Khê giằng lấy bộ cáp nghe chụp
lên đầu, anh hỏi dồn:
- Tôi Khê đây! Báo cáo đi!
Không biết phía đầu kia báo cáo
những gì, chỉ thấy tiểu đoàn trưởng Khê “à”, “ừ” một lúc rồi buông thõng:
- Thôi, được rồi! Cứ thế mà làm-
Nhìn nét mặt chăm chú của những cán bộ dưới quyền xung quanh, anh lắc đầu nói
nhỏ- Mấy xe bị mìn bị chúng bắn cháy hết rồi. Chỉ còn mỗi cái 356 anh em đang
kéo về.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét