Thứ Hai, 30 tháng 4, 2018

QGP THỌC SÂU BẰNG CƠ GIỚI, ĐẬP TAN MỌI HY VỌNG MONG MANH

QGP thần tốc thọc sâu bằng cơ giới: Đập tan những hy vọng mong manh của VNCH
Mũi thọc sâu cơ giới đánh điếm Dinh Độc Lập trưa 30/04/1975. Ảnh tư liệu.

Trong chiến dịch HCM, không thể không nói đến một nét sáng tạo của nghệ thuật quân sự VN: Thành lập các mũi thọc sâu bằng cơ giới, nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu.

Vào cuối tháng 4/1975, sau những thất bại liên tiếp ở Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, đồng bằng Khu 5 và phòng tuyến Phan Rang - Xuân Lộc, tình thế trên chiến trường của Việt Nam Cộng hoà (VNCH) xấu đi nghiêm trọng. Trên chính trường Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trong ấm ức, tinh thần từ giới cầm quyền cho đến binh sĩ hoang mang tột độ.
Trong khi đó, các binh đoàn chủ lực của Quân giải phóng đã đến vị trí tập kết chiến dịch, hình thành 5 cánh quân ép chặt Sài Gòn. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh đã sẵn sàng chờ giờ nổ súng.
Các mục tiêu chủ yếu cần đánh chiếm do Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định là: Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất và Dinh Độc Lập. Đó là những mục tiêu mà khi đánh chiếm được sẽ nhanh chóng làm tan rã sự kháng cự của đối phương.
QGP thần tốc thọc sâu bằng cơ giới: Đập tan những hy vọng mong manh của VNCH - Ảnh 1.
Ngành Kỹ thuật quân đội đã tập trung bảo đảm kỹ thuật cho hàng chục ngàn xe cơ giới phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Ảnh: Tư liệu.
Những hy vọng mong manh
Trong thế trận "không còn gì để mất", Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH khẩn trương tái phối trí lực lượng hòng cố thủ Sài Gòn để hy vọng vào một giải pháp chính trị nào đó. Hệ thống phòng thủ Sài Gòn được phân thành 2 tuyến:
Tuyến phòng thủ vòng ngoài: Bố trí cách trung tâm Sài Gòn 30-50 km. Lực lượng bao gồm 4 sư đoàn bộ binh (BB) và một số đơn vị quân binh chủng. Cụ thể:
Sư đoàn 22 BB (mới tái lập) ở Long An, Bến Lức, ngã ba Trung Lương, sở chỉ huy đặt tại Long An;
Sư đoàn 25 BB giữ Đồng Dù, Trảng Bàng, Củ Chi, Hậu Nghĩa, sở chỉ huy đặt tại căn cứ Đồng Dù;
Sư đoàn 5 BB giữ Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương, sở chỉ huy đặt tại Lai Khê;
Sư đoàn 18 BB (chỉ còn 2 chiến đoàn) giữ Bàu Cá, Trảng Bom, Suối Đĩa;
Sư đoàn Thủy quân lục chiến (chỉ còn 2 lữ đoàn) giữ Long Bình;
Sư đoàn 5 Không quân đóng tại Tân Sơn Nhất;
Lữ đoàn 3 Thiết giáp giữ Biên Hoà;
Lữ đoàn 1 Dù giữ Bà Rịa - Vũng Tàu;
Tuyến phòng thủ bên trong bao gồm: Ba Liên đoàn Biệt động quân triển khai tại Bình Chánh, Hóc Môn, Bình Triệu. Bốn Khu chiến Đông, Tây, Nam, Bắc do các Liên đoàn Biệt động quân, Bảo an, Phòng vệ dân sự trấn giữ.
QGP thần tốc thọc sâu bằng cơ giới: Đập tan những hy vọng mong manh của VNCH - Ảnh 2.
Mũi thọc sâu cơ giới đánh điếm Dinh Độc Lập trưa 30/04/1975. Ảnh: Tư liệu.
Năm Liên khu phòng thủ nội đô gồm: Liên khu 1 (các quận 1, 3), Liên khu 2 (các quận 5, 6), Liên khu 3 (các quận 2, 4), Liên khu 4 (các quận 7, 8), Liên khu 5 (các quận 10 và 11).
Các ổ đề kháng cũng được tổ chức tại Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô, Bộ Tổng tham mưu (do Liên đoàn biệt kích dù 81 phòng thủ), Tổng nha Cảnh sát, Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Bản thân Dinh Độc Lập cũng được bố trí làm một trung tâm đề kháng với một lữ đoàn cảnh vệ quốc gia có xe tăng và xe bọc thép tăng cường.
QGP thần tốc thọc sâu bằng cơ giới: Đập tan những hy vọng mong manh của VNCH - Ảnh 3.
Ngoài ra, tại Quân khu 4 lực lượng Quân đoàn 4 do Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lệnh còn gần như nguyên vẹn. Trước đó, theo lệnh của Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH, tướng Nguyễn Khoa Nam đã hoàn chỉnh kế hoạch lập "mật khu" để giữ đồng bằng sông Cửu Long làm căn cứ tiếp tục chống cự nếu Sài Gòn thất thủ.
Tướng Nam hy vọng với ba sư đoàn bộ binh 7, 9, 21 còn tương đối nguyên vẹn trong tay, gần nửa triệu địa phương quân và phòng vệ dân sự, cộng với các lực lượng còn sống sót rút từ các quân khu đã thất thủ về có thể lập được vành đai Alpha xung quanh thành phố Cần Thơ, trung tâm chỉ huy của Quân đoàn.
Trong trường hợp không giữ được Cần Thơ, tướng Nam còn có phương án dựa vào tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia với dãy núi Thất Sơn và các vùng có đông tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, có hàng trăm hang động hiểm trở để cầm cự lâu dài và chờ thời cơ phản công.
Trong tháng 4 năm 1975, một số công trình kiên cố dự định sử dụng cho Bộ tổng tham mưu Quân lực VNCH rút về đây đã được xây dựng.
Với lực lượng và cách bố phòng như trên, các tướng lĩnh cũng như giới lãnh đạo chóp bu của VNCH hy vọng sẽ cầm chân QGP được đến mùa mưa và có thể sẽ có một giải pháp chính trị nào đó có lợi với họ.
Tuy nhiên, mọi sự đã không xả ra như ý muốn.
QGP thần tốc thọc sâu bằng cơ giới: Đập tan những hy vọng mong manh của VNCH - Ảnh 4.
Mũi thọc sâu cơ giới đánh điếm Dinh Độc Lập trưa 30/04/1975. Ảnh: Tư liệu.
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
Trước tình hình như trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh đã xác định cách đánh:
"Dùng một phần lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, chia cắt, chặn giữ quân địch không cho chúng rút chạy về Sài Gòn, tiêu diệt và làm tạn rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch phòng ngự vòng ngoài.
Đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng của ta nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ở vùng ven, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu đã được lựa chọn trong nội thành".
Nhiệm vụ cụ thể của các hướng như sau:
Hướng Tây Bắc: Do Quân đoàn 3 đảm nhiệm có nhiệm vụ đánh chiếm Đồng Dù, tiêu diệt Sư đoàn 25BB, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và cùng Quân đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu.
Hướng Bắc và Đông Bắc: Do Quân đoàn 1 đảm nhiệm, có nhiệm vụ đánh chiếm Phú Lợi, tieu diệt Sư đoàn 5BB, tiếp đó đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu và khu Bộ Tư lệnh các binh chủng.
Hướng Tây và Tây Nam: Do Đoàn 232 đảm nhiệm, có nhiệm vụ tiêu diệt Sư đoàn 25BB, cắt đường số 4, đánh chiếm Biệt khu Thủ đô và Tổng nha cảnh sát.
Hướng Đông: Do Quân đoàn 4 đảm nhiệm, có nhiệm vụ tiêu diệt sở chỉ huy Quân đoàn 3, Sư đoàn 18BB ở Biên Hòa, sau đó đánh chiếm dinh Độc Lập.
Hướng Đông Nam: Do Quân đoàn 2 đảm nhiệm, có nhiệm vụ đánh chiếm Bà Rịa- Vũng Tàu, căn cứ Nước Trong, Nhơn Trạch, sau đó phát triển vào nội thành cùng Quân đoàn 4 đánh chiếm dinh Độc Lập.
Căn cứ vào tình hình địch và quán triệt cách đánh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, các quân đoàn đều sử dụng một lực lượng thích hợp để đột phá tuyến phòng thủ vòng ngoài. Đồng thời tổ chức một lực lượng thọc sâu bằng cơ giới mạnh để sẵn sàng cơ động đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu trong nội thành.
Trên hướng Bắc, Quân đoàn 1 sử dụng Sư đoàn 320 và một số đơn vị binh chủng làm lực lượng thọc sâu.Trên hướng Tây Bắc, Quân đoàn 3 sử dụng Sư đoàn 10 và một số đơn vị binh chủng làm mũi thọc sâu.
Trên hướng Tây Nam, Đoàn 232 sử dụng Sư đoàn 9 và một số đơn vị binh chủng làm lực lượng thọc sâu.
Trên hướng Đông, Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 7 và một số đơn vị binh chủng làm lực lượng thọc sâu.
Riêng Quân đoàn 2 thành lập binh đoàn thọc sâu gồm Lữ đoàn xe tăng 203 (thiếu dT2), Trung đoàn BB 66 và một số đơn vị binh chủng đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh quân đoàn.
Với cách đánh thích hợp, chỉ sau gần 5 ngày chiến đấu, các hướng tiến công đều hoàn thành nhiệm vụ, các mục tiêu chủ yếu đều bị đánh chiếm trong thời gian nhanh nhất. Đến 10 giờ 45 ngày 30.4.1975, lá cờ chiến thắng đã được cắm trên nóc Dinh Độc Lập.
12 giờ 30 cùng ngày, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát, Quân đoàn 4 VNCH không cần đánh cũng tan rã.
Nguồn: http://soha.vn/qgp-than-toc-thoc-sau-bang-co-gioi-dap-tan-nhung-hy-vong-mong-manh-cua-vnch-20180426104648634rf20180426104648634.htm

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2018

CÁNH CỬA THÉP XUÂN LỘC BỊ CHỌC THỦNG- MỌI CON ĐƯỜNG VỀ SÀI GÒN ĐÃ MỞ TOANG

"Cánh cửa thép" Xuân Lộc bị chọc thủng - Mọi con đường vào Sài Gòn đã mở toang
Pháo binh và xe tăng của quân Giải phóng trên đường hành quân. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Trước sức tiến công như vũ bão của Quân giải phóng (QGP), toàn bộ Quân khu I và phần lớn Quân khu II của Việt Nam cộng hòa (VNCH) đã thất thủ.


Nhằm hà hơi tiếp sức cho chính quyền tay sai, ngày 28.3.1975- Tổng thống Giê-rơn Pho cử Đại tướng Uây- en, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ sang giúp đỡ.
Trực tiếp đi thị sát chiến trường, Uây-en đã cố vấn cho Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: "thiết lập một tuyến phòng thủ với cái neo đặt ở thị xã Phan Rang, lấy Xuân Lộc làm mũi nhọn và Tây Ninh là rìa phía tây" hòng cố thủ phần đất còn lại để hy vọng vào một giải pháp chính trị nào đó.
Uây- en còn nhấn mạnh: "Phải giữ cho được Xuân Lộc. Mất Xuân Lộc coi như mất Sài Gòn". Đồng thời y còn úp mở khả năng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tăng viện trợ cho Sài Gòn. Như chết đuối vớ được cọc, Thiệu quyết tâm giữ bằng được Xuân Lộc.
"Cánh cửa thép" Xuân Lộc có làm được "chiếc cọc"?
Xuân Lộc là thủ phủ tỉnh Long Khánh (nay là thị xã thuộc tỉnh Đồng Nai). Thị xã này có quốc lộ số 1 và đường sắt xuyên Việt đi qua, có ngã ba Dầu Giây là điểm cuối của đường 20 từ Đà Lạt về, có đường 56 nối với Vũng Tàu; cách Sài Gòn 60 km về phía Đông - Đông Bắc, cách Biên Hòa 25 km về phía Đông.
Địa hình khu vực này không quá phức tạp, gồm nhiều đồi thấp xen giữa các cánh đồng, bãi sắn, vườn cây. Phía Nam có điểm cao Tân Phong (độ cao tuyệt đối 300 m), phía Tây có điểm cao Núi Thị rất thuận lợi cho quan sát chiến trường, tổ chức chỉ huy phòng thủ.
Cánh cửa thép Xuân Lộc bị chọc thủng - Mọi con đường vào Sài Gòn đã mở toang - Ảnh 1.
Xe tăng, bộ binh Quân đoàn 4 tiến công giải phóng Xuân Lộc tháng 4/1975. Ảnh: Báo Bình Dương
Với mục tiêu biến Xuân Lộc thành "cánh cửa thép" che chở cho Sài Gòn từ hướng Đông, Quân lực VNCH đã nâng cấp cấu trúc Xuân Lộc thành cụm cứ điểm mạnh với hai trung tâm chính là tiểu khu quân sự Long Khánh và căn cứ Sư đoàn 18 bộ binh, hai tiền đồn quan trọng là Núi Thị và Tân Phong.
Hệ thống vật cản và công sự chiến đấu ở Xuân Lộc được thiết kế hết sức kiên cố, vững chắc. Phía bên ngoài cứ điểm, mọi con đường vào Xuân Lộc đều có hào chống tăng cùng với các bãi mìn dày đặc. Xung quanh các cứ điểm là tầng tầng lớp lớp rào dây thép gai. Bên trong cứ điểm, công sự chiến đấu được xây dựng kiên cố với nhiều boong ke, lô cốt, hầm ngầm.
Cánh cửa thép Xuân Lộc bị chọc thủng - Mọi con đường vào Sài Gòn đã mở toang - Ảnh 2.
Lực lương phòng thủ ở đây cũng rất mạnh, bao gồm Sư đoàn 18 Bộ binh (với các Trung đoàn 43, 48 và 52), lực lượng Địa phương quân ở tỉnh và các đơn vị tăng phái gồm Trung đoàn 8 (thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh), Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, Liên đoàn 7 Biệt động quân, hai tiểu đoàn pháo binh, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, toàn bộ Lữ đoàn 1 Dù (với các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9) và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.
Sư đoàn 4 Không quân VNCH từ sân bay Cần Thơ phụ trách không yểm chiến thuật. Tất cả lực lượng trên đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh Sư đoàn 18).
Với thiết trí công sự vật cản vững chắc, với lực lượng phòng thủ hùng hậu, với sự chi viện không hạn chế của không quân, pháo binh... Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hy vọng sẽ chặn đứng được đà tiến công của QGP, giữ nguyên phần đất còn lại ít nhất đến mùa mưa để tìm một giải pháp nào đó.
"Cánh cửa thép" cũng bị chọc thủng- Mọi ngả đường đến Sài Gòn đã mở toang
Ngày 02.4.1975, tướng Trần Văn Trà- Tư lệnh QGP Miền trực tiếp tới Sở chỉ huy Quân khu 7 tại xã Vĩnh An bên bờ sông Đồng Nai để giao nhiệm vụ cho các đơn vị Quân khu 7 và Quân đoàn 4 tiến công tiêu diệt Xuân Lộc nhằm mở rộng hành lang tiến công Sài Gòn.
Lực lượng QGP tham gia tiến công Xuân Lộc ban đầu gồm 3 sư đoàn bộ binh 6, 7 và 341, 2 tiểu đoàn xe tăng, 1 trung đoàn pháo binh cùng lực lượng địa phương. Trong đó, Sư đoàn 7 và 1 tiểu đoàn xe tăng vừa tham gia trận hành tiến tiến công giải phóng Đường 20 đang trên đường quay về.
Do thời gian chuẩn bị quá gấp gáp, tướng Hoàng Cầm- Tư lệnh Quân đoàn 4 đề nghị cho lui ngày tiến công sang 9.4.1975. Tướng Trần Văn Trà đồng ý.
5 giờ 40 phút ngày 9.4.1975 trận đánh bắt đầu. Sau khi các trận địa pháo của quân đoàn bắn chế áp mục tiêu 1 giờ, các hướng mũi bộ binh được xe tăng dẫn dắt bắt đầu thực hành tiến công vào các mục tiêu được giao.
Trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) và 8 xe tăng chiếm được một phần hậu cứ của chiến đoàn 52. Trên hướng thứ yếu, Trung đoàn 266 (Sư đoàn 7) đánh vào thị xã đã đến sát sở chỉ huy tiểu khu.
Tại vòng ngoài, các Trung đoàn 270 (Sư đoàn 341), Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) đánh bại 2 tiểu đoàn của Chiến đoàn 43, 48. Ở khu vực Dầu Dây, Sư đoàn 6 diệt 5 chốt từ Hưng Nghĩa đến đèo Mẹ Bồng Con.
Nhìn chung, trên tất cả các hướng, phía VNCH chống trả rất quyết liệt. Một số xe tăng bị mìn, bị hỏng.
Ngày 10.4.1975, phía QGP tung lực lượng dự bị vào tham chiến. Phía VNCH trong thế cùng đường cũng đưa quân lên cứu viện, dựa vào công sự kiên cố chống trả điên cuồng đồng thời tăng cường đánh phá bằng không quân vào các cánh quân QGP hoặc hủy diệt các cứ điểm đã mất.
Sau 5 ngày tiến công, QGP vẫn không hoàn thành được tất cả các mục tiêu đề ra nên tạm dừng. Thấy vậy, tướng Lê Minh Đảo cho rằng QGP đã "hụt hơi". Ngày 14.4 Đảo tổ chức họp báo tại trận thách thức tướng Hoàng Cầm tiếp tục tiến công. Lê Minh Đảo không ngờ sấm sét đang chuẩn bị giáng xuống đầu mình từ hướng khác.
Cánh cửa thép Xuân Lộc bị chọc thủng - Mọi con đường vào Sài Gòn đã mở toang - Ảnh 3.
Đoàn quân giải phóng trên quốc lộ I từ Nha Trang tiến về giải phóng miền Nam.
Phía QGP, trước tình hình khó khăn của trận đánh, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 đã quyết định chuyển hướng tiến công: Không đánh vỗ mặt chính diện nữa mà đánh vào phía sau quân địch.
Cụ thể là: "Tập trung lực lượng đánh chiếm khu vực Ngã ba Dầu Dây và Núi Thị, đồng thời uy hiếp sở chỉ huy Quân đoàn 3 VNCH ở Trảng Bom, đánh địch ở Biên Hòa, Tràng Bom ra phản kích; pháo kích mạnh sân bay Biên Hòa, đẩy địch ở Xuân Lộc vào tình trạng hoang mang, bối rối vì bị cắt rời khỏi hậu phương, bị bao vây cô lập từ nhiều phía...".
Rạng sáng ngày 15.4.1975, khi pháo 130 ly bắt đầu bắn phá căn cứ không quân Biên Hòa, không cho máy bay từ đây yểm trợ Xuân Lộc thì Sư đoàn 6 được tăng cường Trung đoàn 95, hiệp đồng tiến công Chiến đoàn 52 (gồm Trung đoàn 52 của Sư đoàn 18, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, và các lực lượng Địa phương quân ở Kiệm Tân).
Đến cuối ngày QGP đã đánh chiếm được ngã ba Dầu Giây (giao điểm của Quốc lộ 1 với đường 20) và đoạn cuối đường 20 từ Trúc Tân đến Kiệm Tân, đánh bại nhiều cuộc phản kích từ Trảng Bom ra, uy hiếp sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 3 Việt Nam Cộng hòa đặt tại Trảng Bom.
Cùng ngày hôm đó, tại Xuân Lộc, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đồng thời tấn công, đánh lui hai chiến đoàn 43 và 48 của Sư đoàn 18, diệt một phần Lữ đoàn 1 Dù.

Quá trình lui quân của các lực lượng VNCH trong những ngày tiếp theo diễn ra trong mối lo thường trực bị QGP phục kích, tập kích bằng hỏa lực. Cho đến sáng ngày 21 tháng 4 những tuyến phòng thủ cuối cùng của Quân lực VNCH tại Xuân Lộc hoàn toàn tan rã.Mất Dầu Giây và đường 20, Biên Hòa trở thành điểm tiền tiêu; Xuân Lộc bị cô lập và mất vị trí quan trọng, tử thủ chẳng ích gì. Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 Việt Nam Cộng hòa, ra lệnh rút bỏ Long Khánh. Ngày 18 tháng 4, một phần lực lượng ở Xuân Lộc được bốc bằng trực thăng về Biên Hòa - Trảng Bom lập phòng tuyến mới.
Đó cũng là thời điểm "Cánh cửa thép" Xuân Lộc đã chính thức bị chọc thủng. Mọi con đường vào Sài Gòn đã mở toang.

TRỞ TAY KHÔNG KỊP- TRUNG TƯỚNG BỊ BẮT SỐNG

Trở tay không kịp, trung tướng bị bắt sống: Những giờ cuối của BTL tiền phương QĐ 3 VNCH
QGP đập tan “lá chắn thép” Phan Rang của VNCH, giải phóng Ninh Thuận, mở đường tiến quân về giải phóng Sài Gòn. Ảnh tư liệu.

Trước sức tiến công mạnh mẽ của Quân giải phóng (QGP), cho tới cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm 1975, toàn bộ Quân khu 1 và phần lớn Quân khu 2 của VNCH đã rơi vào tay QGP.

Dưới sự cố vấn của Đại tướng Uây-en (John Wayne)- Tổng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu quyết định xây dựng một tuyến phòng thủ mới với "cái neo đặt ở thị xã Phan Rang, lấy Xuân Lộc làm mũi nhọn và Tây Ninh là rìa phía tây" nhằm cố thủ phần đất còn lại.
Để thực hiện mưu đồ này, các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận vốn là phần còn lại của Quân khu 2 nay được sáp nhập vào Quân khu 3, đồng thời Thiệu tổ cho thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 và giao cho Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi - một thủ hạ tin cậy làm tư lệnh với lời hứa sẽ tăng cường tối đa lực lượng và phương tiện.
Hy vọng cuối cùng của Nguyễn Văn Thiệu
Ngày 4 tháng 4 năm 1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tới Phan Rang nhậm chức. Ông ta đặt sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 trong sân bay Thành Sơn hiện đang là căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân vừa mới di tản từ Plây-cu về.
Phụ tá cho Nghi có các chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 Bộ Binh (BB), chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang - Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân (KQ) và đại tá Nguyễn Thu Lương - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù.
Theo nhận định của Nghi, Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lũng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc phòng ngự. Vì vậy ông ta chủ trương:
"Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xã."
Trở tay không kịp, trung tướng bị bắt sống: Những giờ cuối của BTL tiền phương QĐ 3 VNCH - Ảnh 1.
Ngày 16-4-1975: Chiến thắng Phan Rang, giải phóng hoàn toàn tỉnh Ninh Thuận. Ảnh tư liệu.
Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực lượng cỡ 2 sư đoàn. Đó là:
Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du Long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Bà Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xã hoặc vào căn cứ.
Mặt phía Tây, trên Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.
Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa phương quân phụ trách.
Tướng Nghi cùng các tướng lĩnh khác của Quân đoàn 3 VNCH cũng nhận định: Quân giải phóng đã đi quá xa hậu tuyến của mình, đồng thời phải củng cố các địa bàn mới chiếm được nên có nhanh cũng phải cỡ 20 ngày nữa mới tiếp tục tiến công được.
Thời gian đó đủ để tái phối trí lực lượng, thiết trí công sự, bổ sung vũ khí đạn dược... Vì vậy, tướng Nghi khá yên tâm với kế hoạch của mình.
Tuy nhiên, "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Có rất nhiều chuyện xảy ra ngoài ý muốn con người.
Tạo thế bất ngờ, đánh nhanh thắng nhanh
Không như nhận định của các tướng lĩnh VNCH, phía Quân Giải phóng (QGP) đã có những quyết định hết sức táo bạo. Tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh cánh quân Duyên Hải đã quyết định sử dụng Sư đoàn 3 Sao Vàng - với lợi thế ở cự ly gần - gấp rút hoàn thành công tác chuẩn bị đánh Phan Rang, mở cửa cho Quân đoàn 2.
Ngày 14 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 3 bắt đầu tiến công đường hẻm Du Long. Bất ngờ trước sức tiến công của QGP, đường hẻm Du Long thất thủ.
Ngày 15 tháng 4 năm 1975, khi các lực lượng đi đầu của cánh quân Duyên Hải đã đến nam Cam Ranh, Sư đoàn 3 được lệnh lật cánh lên phía Tây để đánh vào sân bay Thành Sơn, nhường hướng tiến công chính diện theo Quốc lộ 1 cho Sư đoàn 325 và Lữ đoàn xe tăng 203 (thiếu).
Trở tay không kịp, trung tướng bị bắt sống: Những giờ cuối của BTL tiền phương QĐ 3 VNCH - Ảnh 2.
Đánh chiếm sân bay Thành Sơn, Phan Rang ngày 16-4-1975. Ảnh tư liệu.
Bất chấp các cuộc oanh kích dữ dội của Sư đoàn 6 KQ - VNCH, các hoạt động điều quân, chuyển quân diễn ra suốt đêm 15.4, tạo thành hai gọng kìm ép chặt Phan Rang.
5 giờ sáng ngày 16 tháng 4 năm 1975, trận tiến công Phan Rang bắt đầu. Các trận địa pháo với số lượng đạn dồi dào bắn cấp tập vào các cứ điểm dọc đường Quốc lộ 1 và sân bay Thành Sơn. Trong khi đó, xe tăng và bộ binh cũng triển khai tiến công.
Trên hướng Quốc lộ 1, với chiến thuật tiến công trong hành tiến, bộ binh của Sư đoàn 325 được đưa lên xe tăng, xe thiết giáp của Tiểu đoàn TTG4 dẫn đầu đội hình tiến công. Lần lượt các cứ điểm Bà Râu, Ba Tháp, Gò Đền, Cà Đú, Hội Diên bị công phá. Hơn 7 giờ ngày 16 tháng 4, Thị xã Phan Rang đã nằm trong tay QGP.
Song song với hướng tiến công dọc Quốc lộ 1, trên hướng Tây, Trung đoàn 25 và Sư đoàn 3 cũng đã áp sát và nố súng tiến công sân bay Thành Sơn.
Để nhanh chóng dứt điểm mục tiêu sân bay Thành Sơn, Bộ Chỉ huy Quân đoàn 2 đã chỉ thị cho sư đoàn 325 tổ chức thêm một mũi bộ binh, xe tăng, từ thị xã Phan Rang đánh lên sân bay.
Ngay sau khi nhận được mệnh lệnh của cấp trên, Trung đoàn 101 lập tức phái Đại đội 3 bộ binh cùng với xe tăng và hai trung đội của Đại đội 2 bộ binh tiến lên phía tây bắc, đánh chiếm sân bay Thành Sơn.
Khi xe tăng và bộ binh Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 101 vận động đến quận lỵ Bửu Sơn (Tháp Chàm) phát hiện địch, QGP lập tức tách làm 2 mũi: mũi số 1 chọc thẳng vào cổng số 1 sân bay Thành Sơn; mũi thứ 2 đánh vào quận lỵ Bửu Sơn. Đến 9 giờ 20 phút, Đại đội 2 và xe tăng chiếm gọn quận lỵ Bửu Sơn.
Thừa thắng, bộ binh và xe tăng QGP đánh thẳng vào khu vực đường băng chính. Trên hướng bắc sân bay, lúc này, Trung đoàn 25 và Sư đoàn 3 dùng mìn liên kết phá tung 11 lớp rào kẽm gai, đánh tràn vào căn cứ. Một mũi khác dánh thẳng vào cổng số 2.
Đến 9 giờ 30 phút, Trung đoàn BB 101 có xe tăng của Lữ đoàn 203 phối hợp, cùng với các mũi tiến công của bộ binh Trung đoàn 25, Sư đoàn 3 gặp nhau ở khu vực đài chỉ huy sân bay. QGP hoàn toàn làm chủ sân bay, thu 40 máy bay còn nguyên vẹn.
Trở tay không kịp - Bó tay chịu trói
Tại Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 VNCH, vào 8.00 giờ sáng ngày 16 tháng 4, Đại tá Biết Liên Đoàn Trưởng Liên đoàn 31BĐQ báo cáo là Du Long đã bị tràn ngập và QGP đã vào thị xã. Trung tướng Nghi mời Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt vào để duyệt xét tình hình. Tướng Nhựt cho biết các đơn vị của ông ta đang chạm QGP và sau đó trở ra đi thị sát mặt trận.
Trong khi đó, QGP vẫn giữ mức độ pháo kích chế áp từng chập vào sân bay. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số máy bay đã rời căn cứ.
Khoảng 9.00 giờ sáng, một trực thăng vũ trang bị tên lửa A72 bắn rơi tại ngọn đồi gần sân bay. Trung đoàn 4 báo cáo đang chạm QGP. Trong lúc đó xe tăng QGP đã xuất hiện ở cổng số 1 sân bay.
Tuy vậy, đến lúc đó, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng vào khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chặn QGP tràn vào cổng số 1 của căn cứ.
Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền mời Chuẩn tướng Sang, Đại tá Lương tới họp để tái duyệt xét tình hình. Vì mặt trận đã bị thủng từ Du Long và QGP đang hăm dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến phòng thủ mới.
Trở tay không kịp, trung tướng bị bắt sống: Những giờ cuối của BTL tiền phương QĐ 3 VNCH - Ảnh 3.
Thấy không thể trùng trình được nữa, tướng Phạm Ngọc Sang giục tướng Nghi: "Tôi đã chuẩn bị sẵn một máy bay do Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn chiến thuật 72 lái, rất tin cẩn. Xin mời trung tướng đi trực thăng lên trời chỉ huy. Tánh mạng của trung tướng là quan trọng".
Tướng Nghi trả lời: "Cám ơn, nhưng chưa nên vội". Và ông ta vẫn bám chặt lấy ống nghe máy điện đài.
Nửa giờ sau, Tư lệnh sư đoàn 2 BB Trần Văn Nhựt báo cáo: "Sư 2 không còn sức phản công, Cộng quân đã vào chiếm các đồi ở phía bắc". Cùng lúc, đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy Liên đoàn 31 BĐQ giữ cổng số 2 cũng báo cáo: "Quân biệt động đã tan rã hết rồi. Cổng số 2 đang bị tràn ngập!".
Trở tay không kịp, trung tướng bị bắt sống: Những giờ cuối của BTL tiền phương QĐ 3 VNCH - Ảnh 4.
Binh lính Sư đoàn 2 ngụy quân Sài Gòn ra hàng Quân giải phóng. Ảnh tư liệu TTXVN.
Chỉ đến lúc đó, tướng Nghi mới hạ lệnh: "Tất cả rút chạy!" rồi quăng ống nghe tổ hợp PRC25 xuống. Các tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang và Đại tá Nguyễn Thu Lương định chạy ra máy bay lên thẳng nhưng không được vì đạn đại liên từ các quả đồi phía bắc sân bay bắn xuống xối xả.
Không còn cách nào khác, Trung tướng Nghi ra lệnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng mình rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập phòng tuyến mới.

Nhưng mọi ngả đường đã bị bít chặt. Tối 16-4, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang cùng nhiều sĩ quan của Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 VNCH đang lẩn trốn ở khu vực bãi mía thuộc thôn Mỹ Đức (nằm giữa sân bay Thành Sơn và thị xã Phan Rang) đã bị lực lượng truy quét tàn binh của Sư đoàn 3 tóm gọn.Trung tướng Nghi, Chuẩn tướng Sang, Đại tá Lương, ông Lewis - chuyên viên Tòa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 KQ, Lữ Đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ khác vào khoảng vài trăm người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 đi về hướng Nam.
Thế là niềm hy vọng cuối cùng của Nguyễn Văn Thiệu vào "Lá chắn thép" Phan Rang và tên thủ hạ tin cậy Nguyễn Vĩnh Nghi đã tan thành mây khói!