Cuộc hỏi cung đại tá Nguyễn Trọng
Luật được tiến hành tại một căn lán dã chiến ngay bên cạnh sở chỉ huy chiến
dịch. Căn lán nửa nổi nửa chìm được che sơ sài bằng mấy tấm tranh. Giữa lán là
bộ bàn ghế ghép tạm bằng tre. Lúc Kiệm đến, Luật đã ngồi bó gối ở đó, ngoài cửa
là một chiến sĩ bộ binh cắp khẩu AK đứng gác.
Thấy Kiệm vào, Luật đứng dậy lễ
phép cúi đầu chào. Ngồi xuống ghế, Kiệm ra hiệu cho tên tù binh ngồi xuống. Lấy
cuốn sổ tay từ trong xắc cốt ra, anh im lặng ngắm nghía tên cựu tỉnh trưởng Đắc
Lắc. Mặc dù đã trải qua những thời khắc chắc là gian nan nhất đời binh nghiệp
nhưng Luật vẫn giữ được một thân thể khá béo tốt. Một chút sắc hồng đã trở lại
trên gương mặt. Tuy nhiên, hai túi thịt dưới mắt đã chảy sệ xuống đầy vẻ mệt
mỏi, bi quan. Đôi mắt thì lúc nào cũng nhìn xuống. Một phút yên lặng trôi qua,
Kiệm ôn tồn:
- Anh cho biết họ tên, cấp bậc,
chức vụ?
Tên tù binh vẫn cúi mặt:
- Dạ, thưa ông! Tôi là Nguyễn Trọng
Luật, đại tá, tỉnh trưởng Đắc Lắc.
Kiệm vẫn nhẹ nhàng:
- Anh cho biết, sau khi bị bắt
anh được đối xử thế nào? Có bị ai đánh đập không? Có được ăn uống đầy đủ không?
Tên tù binh vẫn cúi mặt:
- Dạ, thưa ông! Từ lúc bị bắt tôi
được anh em cán binh đối xử rất tốt. Tôi không bị ai đánh đập. Buổi tối hôm qua
và sáng nay đã được ăn cơm. Tôi rất biết ơn quân giải phóng đã đối xử tốt với
mình.
Để tên tù binh thật yên tâm và
thoải mái hơn, Kiệm hạ giọng chân thành:
- Anh cứ yên tâm. Bộ đội chúng
tôi vào đây chiến đấu để đánh đuổi bọn xâm lược Mỹ và tay sai ngụy quyền, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Những ai đã đầu hàng sẽ được bảo toàn mạng
sống và sẽ được đối xử nhân đạo. Tuy nhiên, chúng tôi cũng yêu cầu các anh phải
hợp tác với chúng tôi. Anh nghe rõ chưa?
Đến đây thì tên tù binh đã ngẩng
đầu lên, hắn khẩn khoản:
- Tôi nghe rõ rồi. Tôi xin đội ơn
các ông đã tha mạng. Về phần tôi sẽ cố gắng hết sức.
Kiệm tươi cười:
- Thế là tốt. Bây giờ anh cho
biết sơ lược về tiểu sử của mình.
Luật im lặng một lát rồi nhỏ nhẻ:
- Thưa, tôi vốn là sĩ quan thiết
kỵ. Suốt từ khi gia nhập quân đội cộng hòa tôi đã phục vụ ở binh chủng này. Năm
1965 tôi là trung tá thiết đoàn trưởng. Năm 1971 tôi được phong đại tá, lữ đoàn
trưởng lữ đoàn 1 thiết kỵ. Từ năm ngoái tôi được điều về làm tỉnh trưởng Đắc
Lắc cho đến nay.
Làm như vô tình, Kiệm hỏi:
- Là sĩ quan thiết kỵ lâu năm thế
chắc anh hiểu rất rõ về binh chủng này.
Luật như người chết đuối vớ được
cọc, hắn hồn nhiên:
- Thưa, đúng thế ạ! Tôi đã tưởng
sống chết với nghề sĩ quan thiết kỵ. Ngờ đâu cuối đời trên lại điều về làm tỉnh
trưởng tỉnh này. Tuy về địa phương nhưng lúc nào tôi cũng tự nhận mình là một người
lính mũ đen.
Thấy câu chuyện đã có đà, Kiệm
nhỏ nhẹ:
- Anh có thể cho tôi biết về tổ
chức lực lượng của binh chủng thiết giáp các anh hiện nay một cách cụ thể được
không?
Luật hăng hái:
- Thưa, được ạ! Hiện tại binh
chủng thiết giáp của quân lực Việt Nam cộng hòa được tổ chức thành bốn lữ đoàn
trực thuộc bốn quân đoàn. Mỗi lữ đoàn có từ năm đến sáu thiết đoàn nên tổng số
có hai mươi mốt thiết đoàn. Trong đó có ba thiết đoàn chiến xa và mười tám
thiết đoàn kỵ binh, mang phiên hiệu từ thiết đoàn 1 đến thiết đoàn 22.
Kiệm đột ngột cắt ngang:
- Sao hai mươi mốt thiết đoàn mà
phiên hiệu lại có đến 22?
Luật hơi mỉm cười:
- Dạ, vì các cấp trên của chúng
tôi kiêng con số 13 nên không có thiết đoàn 13 ạ.
Kiệm cũng bật cười:
- Ra là thế! Mà sao lại phân biệt
thiết đoàn chiến xa và thiết đoàn kỵ binh, chúng khác nhau ở chỗ nào?
Luật ngước mắt lên hăng hái:
- Dạ, khác nhau chứ! Thiết đoàn
nào được trang bị chiến xa M48 thì mới được gọi là thiết đoàn chiến xa. Mỗi
thiết đoàn này có 54 chiến xa M48, chia làm ba chi đoàn, mỗi chi đoàn lại chia
làm ba chi đội. Trong quân lực Việt Nam cộng hòa chỉ có ba thiết đoàn chiến xa
phối trí ở các quân khu Một, Hai, Ba. Còn quân khu Bốn do địa hình sình lầy
nhiều nên không trang bị chiến xa. Còn 18 thiết đoàn kia chỉ trang bị M41 với
M113 và được gọi là thiết đoàn kỵ binh.
Kiệm gật đầu ra vẻ đã hiểu, anh
chuyển sang đề tài khác:
- Anh cho biết cụ thể lực lượng
thiết giáp ở các quân khu hiện nay thế nào?
Luật suy nghĩ giây lát rồi bấm
từng đốt ngón tay rành rẽ:
- Thưa ông, ở quân khu Một có lữ
đoàn kỵ binh 1, gồm năm thiết đoàn. Trong đó có bốn thiết đoàn kỵ binh 4, 7,
11, 17 và một thiết đoàn chiến xa 20. Quân khu Hai có lữ đoàn kỵ binh 2 cũng
gồm 5 thiết đoàn, bao gồm các thiết đoàn kỵ binh 3, 8, 14, 19 và thiết đoàn
chiến xa 21. Riêng lữ kỵ binh 3 của quân khu Ba có sáu thiết đoàn, gồm các
thiết đoàn kỵ binh 1, 5, 10, 15, 18 và
thiết đoàn chiến xa 22. Ở quân khu Bốn, lữ kỵ binh 4 có năm thiết đoàn đều là
kỵ binh. Đó là các thiết đoàn 2, 6, 9, 12 và 16.
Cây bút trong tay Kiệm lia nhanh
những hàng chữ viết tháu trên trang giấy đã gần kín. Đọc lại một lượt những gì
mình vừa viết, Kiệm ngẩng lên:
- Một lữ đoàn có năm đến sáu
thiết đoàn thì các anh bố trí lực lượng như thế nào?
Tên tù binh trả lời ngay:
- Thưa, thường lữ đoàn chỉ giữ
lại chiến đoàn chiến xa và một, hai thiết đoàn kỵ binh trực thuộc làm trừ bị
cho quân đoàn, số còn lại thì tăng phái cho các sư đoàn bộ binh mỗi sư đoàn một
thiết đoàn ạ.
Kiệm thầm thừa nhận tên này có
hiểu biết khá sâu sắc về lực lượng thiết giáp và có trí nhớ khá tốt, anh gặng
lại:
- Như vậy, toàn binh chủng các
anh chỉ có ba thiết đoàn trang bị M48.
Luật gật đầu khẳng định:
- Thưa, đúng vậy ạ!
Kiệm nhẩm tính, như vậy nếu xét
về xe tăng chủ lực M48 thì toàn bộ lực lượng của chúng cũng chỉ độ trăm rưởi
cái. Tuy nhiên, cũng không thể coi thường thằng M41. Vì vậy, anh nhẹ nhàng:
- Thế còn M41 thì trang bị cho
những cấp nào?
Tên tù binh hơi tỏ vẻ ngạc nhiên
nhưng rồi hắn lại rành rẽ:
- Dạ, mỗi thiết đoàn kỵ binh có
ba chi đoàn thì trong đó có một chi đoàn M41, hai chi đoàn M113. Riêng quân khu
Bốn thì chỉ trang bị M113 thôi ạ.
Kiệm lại nhẩm tính. Như vậy chúng
cũng chỉ có tổng cộng mười ba chi đoàn M41, vị chi là khoảng hơn sáu trăm xe
nếu như đủ theo biên chế. Tuy nhiên, điều này chắc là không thể. Kiệm nhìn xoáy
vào đôi mắt tên tù binh:
- Anh có nắm được tỷ lệ trang bị thực
tế so với biên chế của các đơn vị thiết kỵ hay không?
Luật ngầm nghĩ một lát mới trả
lời:
- Thưa, tôi rời binh chủng cũng
khá lâu rồi nên ít có điều kiện cập nhật thông tin. Tuy nhiên, theo những gì
tôi được biết thì tỷ lệ trang bị thực tế chỉ đạt chừng bảy mươi đến tám mươi
phần trăm mà thôi.
Kiệm vẫn nhìn thẳng vào mắt hắn:
- Tại sao anh lại cho rằng như
vậy?
Luật tỏ vẻ hiểu biết:
- Thưa, có mấy nguyên nhân. Thứ
nhất, mấy năm nay Hoa Kỳ không viện trợ trang bị mới cho chúng tôi nên số hao
hụt trong các cuộc giao tranh những năm qua không được bổ sung kịp thời. Thứ
hai, do công tác bảo trì và sửa chữa của Lục quân công xưởng còn kém nên nhiều
hư hỏng không giải quyết được, xe pháo nằm chỗ nhiều. Tôi có nghe anh em chiến
hữu mũ đen phàn nàn như thế nhiều, nhất là ở quân khu Một.
Kiệm lại nhẩm tính, nếu tên này
nói đúng thì chúng chỉ còn chừng hơn trăm cái M48 và khoảng bốn trăm M41. Như
vậy, về số lượng là không đáng lo lắm. Tiếp tục nhìn thẳng vào mắt tên tù binh
anh hất hàm:
- Hình như anh cũng đã đụng độ
với xe tăng Quân giải phóng khá nhiều lần rồi phải không? Anh có nhận xét gì về
tác chiến của xe tăng Quân giải phóng?
Luật im lặng suy nghĩ một lát rồi
ngắc ngứ:
- Thưa, đúng là tôi đã có đụng độ
với xe tăng Quân giải phóng ở Hạ Lào và ở quân khu Một nhưng không đụng độ trực
tiếp nên không dám đưa ra nhận xét ạ.
Kiệm nghĩ thầm, có thể là hắn
ngại, cũng có thể là sỹ diện, anh cười mỉm:
- Nhưng vừa rồi thì anh đã trực
tiếp chứng kiến xe tăng tiến công Buôn- Mê- Thuột phải không? Các anh đã tổ
chức phòng thủ thế nào mà để một thị xã lớn như vậy lại thất thủ nhanh chóng
như thế?
Luật cúi đầu trầm ngâm, một lát
sau mới ngượng ngập:
- Thưa, thật sự là chúng tôi đã
hoàn toàn bị bất ngờ. Bất ngờ cả về hướng tấn công. Bất ngờ cả về sử dụng lực
lượng. Ngay hôm mồng Chín, tướng Phạm Văn Phú còn về đây thị sát tình hình và họp
với chúng tôi vẫn khẳng định mục tiêu chủ yếu của các ông mùa khô này là Pley-
cu và Kon Tum. Khi tôi nêu những nghi vấn xung quanh khu vực ổng cũng chỉ cho
thành lập mặt trận Buôn- Mê- Thuột và giao cho đại tá Quang tư lệnh phó sư đoàn
23 chỉ huy mà không tăng cường thêm bất cứ lực lượng nào- Hắn tần ngần một lát
rồi ngẩng lên- Có một điều rất lạ mà tôi không sao hiểu được là các ông làm thế
nào để đưa chiến xa hạng nặng vào đến thị xã mà phi cơ L19 và các lực lượng
thám sát của chúng tôi vẫn không phát hiện ra.
Kiệm cười:
- Chuyện đó rồi anh sẽ còn thời
gian để tìm hiểu- Anh nghiêng đầu hỏi tiếp- Theo anh, Sài Gòn và Bộ Tư lệnh
quân đoàn Hai sẽ làm gì bây giờ.
Lại im lặng gần một phút Luật mới
nói nhỏ:
- Buôn- Mê- Thuột là thủ phủ nam
cao nguyên, nó có vị trí chiến lược rất quan trọng nên chắc chắn chẳng ai muốn
mất nó. Căn cứ vào cuộc điện đàm cuối cùng mà tôi nhận được của tướng Phú thì
chắc chắn ông sẽ cho quân ứng cứu giải tỏa Buôn- Mê- Thuột. Còn Sài Gòn chắc
cũng muốn như vậy.
Kiệm gõ gõ cây bút trên cuốn sổ,
nhát gừng:
- Vậy theo anh, lực lượng mà quân
đoàn đem đến giải tỏa là bao nhiêu? Khả năng thành công như thế nào?
Lần này Luật trả lời ngay:
- Thưa, căn cứ tình hình hiện
tại, khi mà cả Pley- cu và Kon Tum cũng đang bị uy hiếp thì tướng Phú chỉ có
thể đưa tới giải tỏa Buôn- Mê- Thuột tối đa là hai trung đoàn của sư đoàn 23 bộ
binh mà thôi. Còn khả năng thì- Hắn nhún vai- Với những gì tôi nhìn thấy từ hôm
qua tới nay, tôi cho rằng mọi giải pháp đều vô vọng. Không những không giải tỏa
được Buôn- Mê- Thuột mà có khi còn mất luôn cả Pley- cu và Kon Tum nữa ấy chứ.
Kiệm tiếp tục dồn:
- Vậy tiếp theo sẽ là gì?
Luật lắc đầu:
- Thưa, thật sự tôi cũng không
hiểu. Nhưng tôi biết, dẫu có cố gắng bao nhiêu đi nữa quân đoàn Hai này cũng
không đứng vững nổi.
Liếc qua trang giấy thấy cũng đã
đạt yêu cầu của mình, Kiệm gập sổ lại, anh ngẩng lên nghiêm giọng:
- Câu hỏi cuối cùng, anh có đánh
giá thế nào về sức mạnh của xe tăng Quân giải phóng trong trận tiến công Buôn-
Mê- Thuột?
Cho đến lúc này chắc Luật đã đoán
ra người đang hỏi cung mình là ai, hắn cúi đầu ngượng ngập:
- Thưa, tôi thực sự không biết
nói thế nào… Binh sĩ của các ông rất dũng cảm, mặc dù hỏa lực chống tăng dày
đăc, phi cơ oanh kích dữ dội họ vẫn xông lên. Xe này cháy, xe khác lại xông
vào. Hình như họ không biết sợ thì phải. Còn pháo trên xe T54 của các ông bắn
trực xạ uy lực thật khủng khiếp, M48 của chúng tôi cũng thua xa.
Chẳng hiểu có phải hắn nịnh mình
không nhưng Kiệm biết những điều hắn nói ra là thật, anh tươi cười:
- Xin cảm ơn anh về sự hợp tác
hôm nay. Giờ cho anh về nghỉ!
Tên tù binh đứng dậy lễ phép cũi đầu chào rồi nặng nề
lê bước ra cửa lán. Kiệm ngồi lại một mình nhăn trán suy nghĩ, một lát sau anh
lại cắm cúi ghi chép. Ngay chiều hôm đó, bản báo cáo của đại diện xe tăng đã có
trên bàn làm việc của Tổng Tham mưu trưởng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét