Cái
Tết năm nay của nhà bà Hạnh có phần vui vẻ hơn mọi năm. Sự vắng mặt của ông Đào
trong những ngày Tết đã trở thành bình thường. Thì từ khi lấy nhau đến nay đã
hơn hai chục năm nay ông cũng mới có hai lần ăn Tết ở nhà cùng vợ con, còn lại
cứ biền biệt suốt. Hết chín năm kháng chiến chống Pháp đến ba năm đi học nước
ngoài, về nước được hai năm thì lại xảy ra chiến tranh phá hoại. Tết này trước
khi đi chiến trường ông cũng ghé về nhà được một buổi rồi thông báo ngắn gọn:
“Tôi đi công tác xa, Tết này không về nhà được”. Nói Tết này nhà bà vui hơn là
vì có đứa cháu ngoại con đầu lòng của Hường được mẹ đưa về ăn Tết với bà. Đứa
bé đã được gần một tuổi trở thành trung tâm chú ý của cả nhà. Bận rộn hơn nhưng
cũng vui vẻ, ấm cúng hơn. Vì vậy bà quyết định sẽ tổ chức bữa “hạ cây nêu” tươm
tất hơn mọi năm. Thực ra từ lâu ở quê bà người ta đã thôi không trồng cây nêu
vào dịp Tết nhưng vào mồng bảy Tết nhà nào nhà nấy vẫn sắm sửa cỗ bàn cúng các
cụ, gọi là bữa “hạ cây nêu”.
Cỗ bàn đã được bày biện đầy đủ trên
bàn thờ, bà Hạnh sửa lại đầu tóc rồi đứng trước bàn thờ khấn vái. Bà không biết
khấn bằng chữ Hán nên cứ nôm na nghĩ thế nào nói thế ấy, đại khái mong tổ tiên
phù hộ độ trì cho cả nhà mạnh khỏe, may mắn, con cháu học hành tấn tới, phù hộ
cho ông ấy giữa nơi hòn tên, mũi đạn được bình yên trở về với gia đình. Ngoài
sân cậu Hưng và các dì đang tranh nhau bắt đứa cháu đầu tập đi, chúng hò hét
động viên thằng bé váng cả nhà. Khấn vái xong bà quay ra nhìn các con và đứa
cháu cười hiền hậu.
Chợt một chiếc xe con đỗ xịch ngay
trước ngõ. Thoáng nhìn qua bà biết ngay là xe cơ quan chồng. Từ trên xe trưởng
ban cán bộ Hiệu bước xuống. Quái lạ, hôm 29 Tết chú ấy và bác Ngọc, bác Thu đã
về chúc Tết gia đình rồi cơ mà! Bà chợt thấy một luồng hơi lạnh chạy dọc sống
lưng: “chắc ông ấy có việc gì?”.
Linh cảm của bà đã đúng, sau một hồi
vòng vo rồi Hiệu cũng phải nói thật:
- Thưa chị! Vừa rồi đi công tác bên
nước bạn anh Đào chẳng may bị ốm. Hiện anh đang nằm điều trị ở 108. Các thủ
trưởng Bộ tư lệnh cho em về đón chị sang thăm và động viên anh ấy.
Bà Hạnh nước mắt vòng quanh:
- Anh ấy bị nặng lắm phải không chú?
Hiệu nói tỉnh bơ như không:
- Dạ! Cũng bình thường thôi, không
nặng lắm đâu.
Mấy chị em con Hường đã nghe thấy hết
mọi chuyện, chúng xúm vào đứng sau lưng mẹ. Bà Hạnh lấy lại vẻ bình tĩnh cất
tiếng dõng dạc:
- Bố bị ốm, bây giờ Hưng và Hiển đi
với mẹ sang thăm bố, còn chị Hường ở nhà cho các em ăn cơm. Chiều nay đứa nào
vào việc ấy nhé!
Thấy bà định gói ít thức ăn mang đi
Hiệu nhỏ nhẹ:
- Không cần đâu chị ạ. Bên ấy có đầy
đủ các thứ rồi.
Bà quày quả ra xe, anh con rể và cậu
con nuôi lẳng lặng theo sau. Mọi người vừa lên xe chiếc xe đã nổ máy nhằm hướng
phà Chèm chạy nhanh.
Suốt dọc đường đi bà không hỏi thêm
Hiệu câu nào vì bà biết rằng có hỏi cũng chỉ nhận được những câu trả lời như
lúc nãy ở nhà nhưng bà biết chắc chắn là ông Đào không chỉ ốm xoàng. Lấy nhau
giờ đã có bốn mặt con bà lạ gì cái tính gan lỳ, bảo thủ của ông ấy. Nếu ông ấy
còn nói được chắc chắn không bao giờ cho đón mẹ con bà sang thăm. Như thế này
có nghĩa là ông ấy đã “thập tử, nhất sinh” rồi.
Bệnh viện 108 vắng hoe, có lẽ các khoa
phòng đã đi sơ tán cả chỉ còn một số bộ phận ở lại. Chiếc xe con chưa dừng hẳn
bà Hạnh đã thấy ông Ngọc, ông Dương và ông Thu bước lại đón. Vừa bước xuống xe
bà hỏi ngay:
- Ông ấy bị nặng lắm phải không? Cho
tôi vào với ông ấy ngay!
Chính ủy Ngọc vẫn giữ được vẻ điềm
tĩnh thường ngày:
- Chị cứ bình tĩnh! Anh ấy bị cũng
nặng nhưng nhờ được cấp cứu kịp thời, lại được máy bay chuyển về đây ngay nên
đã qua cơn nguy kịch. Chị đợi một lát nữa để anh em người ta chăm sóc cho anh
ấy xong rồi vào.
Tham mưu trưởng Dương, chủ nhiệm chính
trị Thu cũng mỗi người một câu an ủi bà. Thực ra để đi đến quyết định về đón bà
Hạnh sang mấy anh em ông cũng phải bàn bạc mãi. Tham mưu trưởng Dương và trưởng
ban cán bộ Hiệu thì cho rằng cứ để ông Đào tương đối bình phục rồi hãy cho gia
đình biết. Chủ nhiệm chính trị Thu thì ngược lại, trong thâm tâm ông lo quyền
tư lệnh Đào không qua khỏi được nên ông kiên quyết đề nghị đón bà Hạnh sang
ngay. Cuối cùng chính ủy Ngọc đã ngả theo ý kiến của ông Thu.
Các y tá đã đẩy chiếc xe chuyên dùng
đi ra, chính ủy Ngọc chìa tay:
- Chị vào đi!
Bà Hạnh xăm xăm bước vào căn phòng
trắng toát một màu lạnh lẽo. Trong phòng chỉ có mỗi một giường có người nằm lên
bà đoán chắc đấy là chồng mình. Bà tiến lại gần. Hai chân bà bỗng rủn ra như
muốn khụyu xuống. Hiển đi phía sau vội đưa tay đỡ và dìu mẹ vợ đến sát bên
giường. Ngồi ghé xuống mép giường bà nhìn đăm đăm vào cái thân hình nhỏ nhoi
như một đứa bé đang nằm bất động trước mặt: một vòng băng trắng cuốn gần kín cả
đầu và mặt, một cái mặt nạ nhựa trong suốt chụp lên mũi, ló ra khỏi tấm chăn là
một vòng băng từ bả vai trái xuống, một chai dịch truyền trong vắt treo ở đầu
giường nối vào tay phải của ông bằng một ống nhựa đang rỉ rả từng giọt. Bà lay
nhẹ vào bên vai còn lành lặn của ông:
- Ông Đào! Ông Đào!
Người bác sĩ trực nãy giờ vẫn đứng
lặng im nay mới lên tiếng:
- Bác đừng gọi bác ấy nữa. Hiện giờ
bác ấy vẫn đang hôn mê nên chưa biết gì đâu.
Bà Hạnh hỏi mà không quay đầu lại:
- Nhà tôi bị có nặng lắm không?
Người bác sĩ từ tốn:
- Thưa bác! Bác ấy bị thương vào đầu,
mặt và ngực. Nhìn chung vết thương cũng không nặng lắm và hiện tại đã qua cơn
nguy kịch. Bây giờ thì bác ấy còn hôn mê, chắc một hai ngày nữa sẽ tỉnh lại.
Bà Hạnh vẫn ngồi đăm đăm nhìn chồng.
Hai mươi mấy năm lấy nhau thì hơn chục năm ông chinh chiến khắp các chiến
trường, bị thương cũng đã mấy lần nhưng bà nào có biết. Thôi thì phận vợ bộ đội
thời chiến chẳng biết thế nào mà nói trước được. Còn biết bao chị em khác đâu
có được cái may mắn như bà. Nghĩ được như vậy bà đứng dạy cứng cỏi:
- Bây giờ mẹ ở lại đây chăm sóc bố.
Hai anh em nhờ các chú đưa về rồi còn đi làm, đi học. Nhớ nói với Hường và các
em là bố bị nhẹ thôi.
***
Đối với ông Đào thời gian nằm viện vừa
dài lê thê vừa vô vị đến chán ngấy. Là con người của hành động lúc nào ông cũng
phải có một việc gì đó để làm, để suy nghĩ, để học hỏi. Còn bây giờ nằm ở đây
đã hơn tháng trời chẳng có việc gì mà làm, mà muốn làm gì cũng không được vì
ngực và tay trái vẫn còn đau. Sách cũng không được đọc vì con mắt còn lại vẫn
đau nhức và thị lực giảm khá nhiều. Bác sĩ bảo ông phải giữ gìn thật cẩn thận
may ra mới hồi phục được. Chỉ còn mỗi cái đầu là không ai cấm được ông suy nghĩ
thành ra chưa bao giờ ông có nhiều thời gian để nghĩ ngợi đến thế.
Mặc dù tiêu chuẩn cán bộ cao cấp có
người phục vụ riêng nhưng bà Hạnh vẫn thường xuyên ở lại chăm sóc ông từ ngày
ấy đến giờ. Ông bắt bà về lo công việc ở nhà thì bà bảo: “các con lớn rồi, lại
còn bà con cô bác nữa” nên vẫn ở lại. Lấy nhau hơn hai chục năm, có với nhau đã
bốn mặt con nhưng lần đầu tiên ông và bà được ở với nhau lâu đến vậy. Cũng vì
thế lần đầu tiên ông được hưởng sự chăm sóc từng ly, từng tý của người vợ hiền
thục, đảm đang. Hàng ngày bà chỉ quanh quẩn bên ông, chăm chăm theo dõi xem ông
có yêu cầu gì thì thực hiện. Đến giờ bà xuống nhà ăn lấy hai suất cơm về, bón
cho ông xong rồi mới ăn. Nửa tháng trở lại đây thấy đã khá hơn ông bảo bà đọc
sách cho ông nghe. Con Hường khi biết vậy đã gửi sang cho bố bộ “Con đường đau
khổ” của A- lếch- xây Tôn- stôi mà nó mới mua. Người đàn bà nhà quê ít chữ mấy
hôm đầu cứ như đánh vật với quyển sách, nhất là với những cái tên nước ngoài.
Thấy thế ông bảo bà đừng đọc nữa nhưng bà không nghe. Mất vài hôm thì bà cũng
đọc tương đối trôi chảy, có hôm bà đọc cho ông nghe đến bốn, năm tiếng đồng hồ.
Cảm nhận được cái tình của người vợ hiền khô khan như ông cũng bật lên được câu
đùa:
- Tôi bị thương thế này đâm ra may bà nhỉ!
Có bị thương mình mới được sống với nhau lâu thế chứ.
Bà lườm ông:
- Phải gió cái nhà ông này, chỉ nói
gở!
Nói như vậy nhưng trong sâu thẳm cõi
lòng bà cảm thấy những ngày được ở bên chồng để chăm sóc, nâng giấc cho ông là
chuỗi ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời hơn hai mươi năm làm vợ của bà.
Tuy vậy bà không thể hiểu nổi những
lúc không nghe bà đọc sách hay những đêm trằn trọc, cứ nhìn trừng trừng lên
trần nhà thì ông nghĩ gì. Có nhắc ông đi ngủ cũng chỉ được nghe một câu quen
thuộc: “tôi không ngủ được”. Thế mà xin thuốc ngủ cho lại không uống. Ông bảo:
“uống vào rồi đâm quen, sau này không có thuốc thì ngủ làm sao?”.
Bà không biết cũng phải thôi. Cuộc đời
người phụ nữ nông thôn quanh năm chẳng mấy khi ra khỏi lũy tre làng, vừa mới
đến tuổi trưởng thành thì đã đi làm dâu, làm vợ rồi làm mẹ, cái lo toan quanh
quẩn chỉ là manh áo, miếng cơm rồi con đau, con ốm thì làm sao biết được ông
nghĩ những gì! Còn ông, đúng là những tháng ngày nằm dài ở viện ông đã suy nghĩ
rất nhiều về bản thân mình. Nhưng nghĩ gì thì nghĩ quanh đi quẩn lại cũng chỉ
nhằm vào một câu hỏi đau đáu: mấy chục năm qua mình đã sống như thế nào?
Về thiên chức làm chồng, làm cha xét
cho cùng ông cho rằng mình đã không làm được thật trọn vẹn. Hơn hai mươi năm
làm vợ, làm chồng, có với nhau bốn mặt con mà tổng cộng thời gian sống bên nhau
chỉ được vài ba tháng. Mọi việc trong nhà, trong họ, chăm sóc mẹ già, nuôi dạy
con cái phó mặc cho đôi vai tảo tần của vợ. Họa hoằn lắm thì gửi về nhà vài
chục đồng lương, có dạy bảo con thì cũng dăm câu ba điều khuôn sáo, chúng có
nghe, có làm theo hay không cũng chẳng biết. Ông cũng tự biện hộ cho mình là do
hoàn cảnh thời chiến nhưng rồi từ trong thâm tâm ông đánh giá mình chưa phải là
người chồng tốt, người cha tốt. Nhiều lúc nằm im nhìn cái dáng lặng lẽ, nhẫn
nhục của vợ đi lại phục vụ mình mà ông thấy lòng đắng đót. Ông sẽ phải làm gì
đây để đền đáp lại bà?
Còn một điều nữa chiếm nhiều thời gian
suy nghĩ nhất của ông là: ông đã là một người chỉ huy như thế nào? Là một người
đã đi nhiều, đọc nhiều và chịu khó chiêm nghiệm từ lâu ông đã tự bắt mình phải
phấn đấu theo những tiêu chuẩn của một người làm tướng mà sử sách đông tây kim
cổ đã tổng kết. Tựu trung lại ông thấy những tiêu chí “trí, dũng, nhân, tín,
trung” mà Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã nêu ra trong pho “Binh thư yếu lược”
là đầy đủ và khái quát nhất. Là người rất nghiêm khắc với mình ông nhận thấy
bản thân cũng đã ít nhiều theo được những tiêu chí đó.
Nói về “trí” không dám tự nhận mình là
đã có thừa nhưng ông biết mình cũng đã tích lũy được một số tri thức cũng như
kinh nghiệm hết sức quý giá. Được như vậy trước hết là nhờ một quá trình học
hỏi nghiêm túc theo lời dạy của Bác Hồ ngày ông được gặp Bác sau chiến thắng
Điện Biên Phủ. Lúc ngồi học trong trường thì cố học “hết chữ của thày”, chỗ nào
chưa biết, chưa rõ thì hỏi đến cùng, hỏi cho bằng được. Lúc ra công tác thì học
từ thực tế, học những người đồng đội, rồi chiêm nghiệm, tổng kết. Với sự học
hỏi, nghiên cứu không ngừng ông đã cùng các đồng đội của mình đã đặt những viên
gạch đầu tiên cho lý luận sử dụng xe tăng, thiết giáp mang những nét đặc thù
Việt Nam khác hẳn những gì mà các ông tiếp thu được bên nước bạn. Lý luận đó đã
được kiểm chứng trong trận Tà Mây- Làng Vây và một số trận đánh nữa ở Lào. Tuy
vậy, với ông như thế vẫn còn chưa đủ nên ông mới quyết định đi chiến trường để
trực tiếp chỉ huy, để tận mắt chứng kiến xe tăng của mình chiến đấu qua đó có
thêm thực tế để bổ khuyết cho những gì còn thiếu. Ông không quá tự mãn nhưng
cũng biết rằng cho đến giờ tri thức về sử dụng xe tăng ở Việt Nam thì khó có ai có thể qua được
mặt ông. Tuy nhiên ông cũng biết tri thức là vô hạn mà đầu óc con người thì có
hạn, trong khi đó thực tế lại thay đổi từng ngày từng giờ nên việc học hỏi phải
không ngừng nghỉ. Điều đó thì ông vẫn đang thực hiện, ngay cả bây giờ khi đang
nằm viện đầu óc ông có lúc nào ngừng chiêm nghiệm, suy nghĩ về những trận đánh
mà ông và các đồng đội của ông đã trải qua đâu.
Còn về “dũng” ư? Không dám nhận mình
là người tung hoành ngang dọc giữa nơi trận mạc, đánh đâu thắng đó như các danh
tướng xưa nay nhưng ông cũng tự thấy mình là người có dũng khí, khi nhận bất cứ
nhiệm vụ gì dù khó khăn, ác liệt đến đâu cũng chẳng từ nan mà chỉ có tìm mọi
cách để hoàn thành. Từ lúc làm tiểu đội trưởng, trung đội trưởng chỉ với giáo
mác, súng trường nhưng cũng đã dẫn đầu anh em trong đơn vị lao vào đồn giặc mà
chẳng so đo tính toán. Cho đến lúc được bổ nhiệm lên những chức vụ cao hơn ông
vẫn không ngần ngại xông vào chỗ hòn tên mũi đạn. Cái dũng ở ông còn được thể
hiện ở chỗ ông dám bày tỏ chính kiến của mình và cũng rất kiên quyết bảo vệ
chính kiến của mình dù rằng có đôi khi chính kiến đó không hợp ý cấp trên. Ông
có thể tự hào về điều đó.
“Trung” thì không có gì phải bàn cả.
Là người có chút chữ nghĩa ông đến với cách mạng một cách tự giác và bằng nhận
thức của mình. Vì vậy suốt hai chục năm qua ông tin yêu và phục tùng tuyệt đối
sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ. Lý tưởng của Đảng cũng là lý tưởng sống của
ông và ông đã nguyện một lòng theo Đảng đến cùng dù khó khăn gian khổ đến đâu.
“Tín” cũng vậy. Ông là người biết giữ
chữ tín đối với tất cả mọi người. Từ anh em họ mạc ở quê đến con cháu trong
nhà, từ cấp trên đến cấp dưới khi ông đã hứa cái gì là quyết làm cho bằng được.
Nếu không thực hiện được thì phải có giải thích rõ ràng nguyên nhân vì sao chứ
không bao giờ để cho lời hứa trôi vào quên lãng.
Chí có chữ “Nhân” là làm ông băn khoăn
nhiều nhất. Có hiểu biết sâu sắc về Hán tự và văn hóa phương Đông ông hiểu chữ
“Nhân” có ý nghĩa rất khái quát, rất rộng, rất sâu xa. Nhân đó là nhân văn,
nhân bản, nhân đạo, là cách làm người, là cái cách đối xử giữa con người với
con người. Hiểu đấy, biết đấy nhưng làm theo được thật khó. Nói cho công bằng
ông là người rất thương người, thương cha mẹ, vợ con, thương đồng chí, đồng đội
nhưng cái cách thương của ông cũng hơi khác thường, đúng như kiểu người xưa:
“thương cho roi cho vọt”. Thương đấy nhưng bên ngoài lại tỏ ra rất nghiêm khắc,
nghiêm khắc đến mức khắt khe. Cũng chẳng có mục đích gì ngoài mong muốn cho mọi
người hoàn thiện hơn lên, tốt đẹp hơn lên, giỏi giang hơn lên. Có lẽ cũng vì
thế mà ông là người rất hà tiện lời khen? Ngay cả con cái ông cũng vậy, chúng
ngoan ngoãn, tự lập, học giỏi mà có mấy khi được nghe một lời khen của bố. Còn
ông mà đã chê thì bây giờ tự ông cũng nhận thấy là... hơi quá lời, thậm chí có
khi nghe như chì chiết. Và có lẽ chính vì vậy mà những người xung quanh ông chỉ
sợ ông mà không yêu ông, chỉ làm theo ông vì ông là cấp trên mà không yêu quý
ông như một người cha, một người anh lớn. Các con ông cũng thế, có việc gì cần
nói với bố hay bố gọi hỏi cũng chỉ dăm câu, ba điều là lỉnh mất. Những lúc ấy
ông cũng thấy buồn. Nhưng biết làm sao được, bản tính trời sinh mà. Phương ngôn
Trung Quốc có câu: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”. Ông tự dặn mình phải
cố gắng sửa chữa nhưng cũng biết rằng sẽ rất khó khăn.
Gần ba tháng trời nằm điều trị ở 108
các vết thương trên người quyền tư lệnh Đào về cơ bản đã lành. Bên mắt bị mất
đã được các bác sĩ lắp vào đó một con mắt giả trông cũng không đến nỗi nào, bên
mắt còn lại thị lực đã được khôi phục một phần. Mấy cái xương sườn bị gãy cũng
đã liền nhưng phổi thì hơi yếu, thỉnh thoảng thở còn khó khăn. Mọi cái tiến
triển có vẻ tốt nhưng khi lần đầu tiên đứng trước tấm gương trong buồng vệ sinh
ông không khỏi giật mình vì những thay đổi trên khuôn mặt mình. Một vết sẹo dài
từ chân tóc chẻ đôi lông mày trái và mi mắt kéo xuống tận gò má làm cho bộ mặt
vốn bình thường đã khó gần của ông nay lại thêm nét dữ tợn. Biết vậy đồng chí
chủ nhiệm khoa điều trị cán bộ cao cấp an ủi ông:
- Với đà này thì chẳng mấy chốc anh sẽ được ra viện
thôi. Riêng về đôi mắt tôi sẽ đề nghị bên khoa mắt thửa cho anh một cặp kính đặc
biệt, vừa đảm bảo tăng thị lực cho mắt phải, vừa che đi con mắt bên trái- Ông
cười- Như thế cũng còn đẹp trai chán.
Ông Đào không nói gì nhưng ngay ngày hôm sau đã thấy
được mời lên khoa mắt thử kính. Sau khi thử cặp kính làm riêng cho mình ở khoa
mắt ông thừa nhận đồng chí trưởng khoa có lý. Đôi mắt kính to, lại hơi râm nên
che đi được gần hết vết sẹo bên mắt trái làm cho ông trông đỡ dữ tướng hơn.
Ngay chiều đó ông chính thức xin ra viện, lại còn yêu cầu chính ủy Ngọc và các
đồng sự nói giúp. Cuối cùng, thể theo nguyện vọng của ông bệnh viện đồng ý cho
ông về bệnh xá cơ quan dưỡng bệnh.
***
Quyền tư lệnh Đào về cơ quan được mấy
hôm thì đến lượt tham mưu trưởng Dương nhập viện. Căn bệnh đau bụng từ hồi ở
Đường Chín ra thỉnh thoảng tái phát ông cũng chỉ xin vài viên thuốc an thần,
giảm đau. Nhưng lần này thì đau quá ông buộc phải xuống bệnh xá. Chủ nhiệm quân
y binh chủng đã nhiều lần đề nghị ông đi kiểm tra ông không chịu. Nhân dịp này
anh kiên quyết đưa ông đi khám bệnh, lại còn trực tiếp “áp tải” ông lên 108 để
khám.
Vừa mới nhìn qua tấm phim X quang và
mấy bản kết quả xét nghiệm, chủ nhiệm phòng khám đã yêu cầu ông nhập viện ngay
và làm tất cả thủ tục để mổ càng sớm càng tốt. Thấy bảo mình phải mổ tham mưu
trưởng Dương tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Tôi làm sao mà phải mổ? Suốt hai năm
nay thỉnh thoảng nó đau một tý, uống vài viên thuốc vào là khỏi thôi mà.
Chủ nhiệm phòng khám lắc đầu:
- Không được! Trước thế nào tôi không
biết. Còn hôm nay anh không mổ sẽ nguy hiểm đến tính mạng đấy!
Ông Dương vẫn cười như không có chuyện
gì xảy ra:
- Đề nghị bác sĩ cho biết tôi bị làm
sao?
Chủ nhiệm phòng khám nhăn mặt:
- Anh bị làm sao à? Cái túi mật của
anh nó sưng lên bằng nắm đấm kia kìa- Tay anh ta chỉ vào một vùng sáng trên tấm
phim X quang rồi lắc đầu ngán ngẩm- Tôi cũng chẳng biết tại sao các anh lại coi
thường mạng sống của mình đến vậy. Giá như hồi mới bị đau anh đến đây ngay thì
bây giờ chắc không phải mổ, còn hôm nay không mổ không được.
Biết là không thể tránh được cuộc phẫu
thuật ông Dương chỉ còn biết nhăn nhó:
- Còn bao nhiêu việc đang chất đống
lên đấy!
Người bác sĩ cười:
- Anh cứ yên tâm! Mổ xong rồi anh về
tha hồ mà làm.
Không ai ngờ là bệnh của tham mưu
trưởng Dương lại nặng đến thế. Các bác sĩ cũng định cố gắng bảo toàn cái túi
mật cho ông nhưng không thể và cuối cùng đã đi đến quyết định cắt toàn bộ túi
mật. Chắc là vì khi mới nhiễm bệnh không được điều trị kịp thời, kết hợp với những
cơn sốt rét rừng và điều kiện sống khắc nghiệt ở chiến trường Đường Chín đã gây
ra hậu quả ấy. Khi biết túi mật của mình đã bị cắt hoàn toàn ông Dương lo lắm,
không biết rồi đây mình sẽ thế nào. Thấy ông lo lắng vị bác sĩ điều trị chỉ
cười:
- Anh cứ coi như mình là người tiêu
hoang ấy thôi mà. Người ta làm ra dùng không hết thì cho vào đó dự trữ, lúc nào
thiếu bỏ ra dùng. Còn anh bây giờ thì làm ra bao nhiêu tiêu hết bấy nhiêu không
có chỗ dự trữ nữa- Anh đổi sang giọng an ủi- Nhưng không sao! Chỉ cần anh tuân
theo một số quy định về ăn uống, sinh hoạt thì sức khỏe vẫn đảm bảo. Tôi đảm
bảo anh còn sống đến trăm tuổi ấy chứ.
Nghe thì nghe để đấy chứ tham mưu
trưởng Dương biết rằng sắp tới đối với ông sẽ là những ngày khó khăn, nhất là
khi binh chủng Thiết giáp của ông đang có triển vọng phát triển mạnh mẽ với
nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp hơn. Trong khi đó quyền tư lệnh thì bị
thương chưa khỏi hẳn, còn tham mưu trưởng thì lại như thế này!
Ngày ra viện về cơ quan, chủ nhiệm
chính trị Thu sang thăm lại nói đùa:
- Từ nay ông bạn cứ yên tâm hoạt động
ở hậu phương thôi, còn chiến trường để đấy cho chúng tôi.
Không biết đó là câu đùa vô tình hay
hữu ý nhưng tham mưu trưởng Dương thì buồn lắm.
***
Không chỉ tham mưu trưởng Dương thấy
buồn mà quyền tư lệnh Đào cũng vậy. Có hai cán bộ chủ chốt về quân sự mà lại
đều yếu rớt như thế này thì làm sao cáng đáng nổi công việc. Kinh nghiệm hai
chục năm làm chỉ huy ông biết yêu cầu về sức khỏe đối với những người cán bộ
quân sự là rất cao. Có khỏe mới chịu được những áp lực của công việc, mới vượt
qua được những thử thách cả về trí lực và thể lực kéo dài trong nhiều ngày của
một trận đánh, một chiến dịch và nói rộng ra là của cả cuộc chiến này. Vì vậy
ngoài việc thường xuyên dùng thuốc theo chỉ định của bác sỹ và tham gia những
công việc vừa sức, quyền tư lệnh Đào dành nhiều thời gian cho việc luyện tập
thân thể. Ông sưu tầm những bài tập thể dục dưỡng sinh cũng như những bài vật
lý trị liệu để đưa vào chương trình luyện tập hàng ngày. Không biết có phải vì
vậy hay không nhưng chỉ sau hơn tháng về cơ quan sức khỏe của ông đã tiến triển
khá rõ rệt, lá phổi trái bị thủng giờ đây đã gần trở lại bình thường, khi hít
sâu vào không còn thấy đau nữa.
Về công việc ông không còn sùng sục đi
đơn vị được nữa nhưng tất cả các cuộc họp, cuộc hội thảo ở cơ quan thì tham gia
đầy đủ. Thời giờ còn lại chủ yếu ông dành để đọc và bổ cứu những tài liệu chiến
thuật do anh em Tổ nghiên cứu của phòng tham mưu biên soạn để sắp tới đưa vào
ban hành chính thức. Cũng may giai đoạn này các hoạt động tác chiến trên các
chiến trường tạm lắng xuống, ta tạm thời không mở những chiến dịch lớn và vì
vậy xe tăng cũng tạm thời án binh bất động.
Về phía tham mưu trưởng Dương vừa ở
bệnh viện về là lao ngay vào công việc chỉ đạo phòng tham mưu hoàn chỉnh bản
“kế hoạch phát triển lực lượng tăng thiết giáp giai đoạn 1970- 1975” trong đó
tập trung vào nhiệm vụ chính là đưa các đơn vị xe tăng vào bổ sung cho các
chiến trường trọng điểm. Ngoài ra bản kế hoạch cũng đề cập đến việc xây dựng
các nhà trường đào tạo cán bộ và thành viên kíp xe một cách chính quy hơn.
Bản kế hoạch vừa được đưa sang cho
quyền tư lệnh Đào, ông mới kịp xem qua một lượt thì có điện của Tổng tham mưu
trưởng gọi lên gặp ở thị trấn Tam Đảo. Đút luôn tập bản thảo vào cặp quyền tư
lệnh Đào gọi chủ nhiệm chính trị Thu cùng đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét