Cuộc
“xé rào” đi chơi của Bình và Tráng không thực hiện được vì chập tối ga Vĩnh Yên
thông báo sắp có tàu. Toàn tiểu đoàn tíu tít làm công tác chuẩn bị: gấp bạt, cố
định dụng cụ cấp dưỡng, chuẩn bị dây chằng, chèn gỗ…
Là
nơi xuất phát chủ yếu của các đơn vị xe tăng đi Nam - ga Vĩnh Yên được thiết kế
riêng một đường “ke” để đưa xe tăng lên tàu. Đường “ke” dành riêng ấy có một
cái bệ được xây cao đúng bằng độ cao của mặt toa tàu và có độ dài khoảng mười toa. Khi cho xe lên tàu chỉ
việc lái xe lên bệ, căn chỉnh cho chính xác rồi từ từ bò từ toa này sang toa
khác cho đến khi lên hết cả đoàn đầu máy sẽ kéo ra để đưa đoàn khác vào. Vấn đề
quan trọng là phải căn hướng cho chính xác và giữ cho chân dầu êm, tuyệt đối
không chuyển hướng gấp trên tàu.
Quá
nửa đêm cả tiểu đoàn đã được đưa hết lên tàu. Bên đường sắt đang cho dồn nối
toa. Cánh lính tăng thì cấp tập chằng néo cố định, chèn xích rồi trùm bạt kín.
Mỗi xe chỉ để một lái xe ở lại canh còn tất cả dồn vào hai toa hành khách phía
cuối đoàn tàu, đại đội Bốn và đại đội Năm ở một toa, toa kia dành cho đại đội
Sáu và tiểu đoàn bộ.
Hai
giờ sáng, đoàn tàu kéo một hồi còi dài rồi nhằm hướng Nam thẳng tiến.
Trên
hai toa hành khách quang cảnh nhộn nhạo như trên một chuyến tàu chợ cuối năm. Đại
đội trưởng Nghĩa kéo hai cán bộ trung đội ra đầu toa nói nhỏ:
-
Từ giờ trở đi các cậu vẫn phải hết sức chú ý công tác quản lý bộ đội đấy. Tôi sẽ
ở đầu toa, anh Đán ở giữa toa, các cậu phân công mỗi người cảnh giới một bên,
có vấn đề gì phải báo cáo ngay.
Nghĩa
quay trở lại hướng vào trong toa cao giọng:
-
Các đồng chí chú ý! Trường hợp bị máy bay địch chặn đánh phải hết sức bình
tĩnh, khi tàu dừng thì nhanh chóng chạy xa đường tàu tìm chỗ ẩn nấp; khi báo
yên có còi tập hợp phải nhanh chóng về tàu. Còn bây giờ thì tranh thủ ngủ đi,
anh nào ngủ ngồi được thì ngủ, không thì rải chiếu ra sàn hay mắc võng lên
thành toa mà ngủ.
Một
lát sau trật tự đã được vãn hồi; theo nhịp lắc lư của con tàu những con mắt dần
dần díp lại.
Lúc
chạy, lúc dừng chờ khắc phục cầu đường và tránh máy bay, mất thêm ba đêm nữa
tàu mới đến Vinh. Từ đây họ sẽ xuống Bến Thủy để đi tàu thủy vào Quảng Bình. Xe
chiến đấu, trọng lượng nặng, số giờ bảo hiểm chẳng được bao nhiêu cần phải hết
sức tiết kiệm hành trình. Theo thông báo của hải quân mỗi chuyến họ sẽ chở được
tám chiếc nên tiểu đoàn ưu tiên cho “xê 4” đi trước, ngay sau khi xuống tàu sẽ
hành quân ra Bến Thủy, còn “xê 5” và “xê 6” thì vào giấu quân ở mấy làng gần đó
chờ chuyến sau.
Tàu
vừa dừng tất cả đã nháo nhào xúm vào gấp bạt, tháo dây thép cố định, bỏ chèn chống…
Đưa xe xuống xếp thành đội hình trời đã gần sáng, Nghĩa hối hả lệnh cho toàn đại
đội nhanh chóng cơ động về phía Bến Thủy.
Bình
chạy đầu đại đội, cậu ta ngơ ngác nhìn: thành phố mà thế này ư? Chả thấy gì
ngoài những đống đổ nát, đường phố thì vắng tanh vắng ngắt. Bình lờ mờ cảm thấy
sự tàn khốc của chiến tranh và tăng ga chạy miết.
Chẳng
mấy chốc đoàn tăng đã ra đến ngoại thành, gần đến phà Bến Thủy thì Nghĩa cho đại
đội rẽ vào bên trái và dừng lại tổ chức trú quân đợi tàu. Tám chiếc xe tăng náu
mình dưới hàng cây phi lao ven đê đang vi vút đùa với gió từ sông Lam thổi lên.
Trông cũng thấy khá lộ liễu nhưng cũng chẳng có chỗ nào hơn, Nghĩa hò hét bắt
quân lính ngụy trang thật kỹ nhưng trong lòng vẫn lo ngay ngáy.
Cơm
trưa xong trung đội trưởng Tiến xin phép ghé thăm nhà, Nghĩa đồng ý. Tiến đi rồi
Nghĩa gọi Quý và Tự, trung đội phó trung đội Một đi hiệp đồng với bên hải quân
về kế hoạch chạy tàu. Cả ba thầy trò cùng ngao ngán khi nhận được thông báo:
chưa có tàu, cứ về đợi, khi nào có sẽ thông báo sau.
Thất
thểu ra về, từ xa đã nhìn thấy tám cái xe tăng lù lù ven bờ đê Nghĩa thấy không
ổn. Về đến nơi anh cho pháo hai Đạt đi mời các cán bộ đại đội lên hội ý. Mọi
người vừa ổn định chỗ ngồi, Nghĩa nói ngay:
-
Vừa nãy tôi với anh Quý, anh Tự đây đi làm việc với bên hải quân, theo thông
báo của họ hiện nay vẫn chưa có tàu nên toàn tiểu đoàn ta phải nằm lại đây tiếp
tục chờ, thời gian chưa biết đến bao giờ. Sáng nay tưởng có tàu ngay nên tôi mới
cho đại đội cơ động ra đây, nhưng bây giờ tình hình như vậy nên theo tôi ta phải
cơ động tìm chỗ trú quân khác chứ ở đây điều kiện trú quân không đảm bảo.
Đán tán thưởng:
-
Đúng đấy! Chỗ này chỉ có thể ở tạm thời gian ngắn, bốn bề thì trống trơn, có mỗi
rặng cây phi lao che chẳng kín xe nhỡ có máy bay thì chết.
Nghĩa
hỏi Đán:
-
Cậu Tiến vẫn chưa về hả ông?.
Đán
nhìn đồng hồ:
-
Mới có hơn 3 giờ, nó xin đi đến 5 giờ cơ mà.
Đúng
lúc đó Tiến được cô em đèo xe đạp ra, anh chạy lại xe đại đội trưởng:
-
Báo cáo đại trưởng tôi có mặt!
Nghĩa
cười cười:
-
Đã hết giờ đâu mà vội thế?.
Tiến
cũng cười:
-
Thời chiến mà, ghé qua nhà được một lúc thế là quý lắm rồi.
Đán
chêm vào:
-
Nói thế chứ ông ấy mong cậu lắm đấy!.
Tiến
ngạc nhiên:
-
Có vấn đề gì thế ạ!
Nghĩa
vỗ vai Tiến:
-
Cứ ngồi xuống đây đã, anh nhắc lại tình hình phải đợi tàu và tiếp, cậu là “thổ
công” ở đây nên đề xuất xem có địa điểm nào phù hợp, chiều tối nay ta tranh thủ
liên hệ với địa phương và bà con để sáng sớm mai đưa xe vào. Các anh thấy thế
có được không?
Tiến
gật đầu:
-
Tôi hoàn toàn nhất trí! Các anh yên tâm, có thể nói quanh đây bà con đều rất tốt,
quý bộ đội như con ấy, nhất là bộ đội xe tăng chúng ta.
Chính
trị viên phó Toàn nháy mắt:
-
Này Tiến, tranh thủ đợt này cưới vợ luôn cho ông bà phấn khởi.
Tiến
cười xoà:
-
Còn phải hỏi xem người ta có đồng ý không đã chứ.
Thật
không ngờ vị trí trú quân đợi tàu của “xê 4” lại nằm ngay cạnh nơi Trường trung
cấp y Nghệ Tĩnh sơ tán về. Xe mới dừng được một lát đã thấy lố nhố bóng mấy cô
con gái thấp thoáng ven rặng cây chỉ chỉ trỏ trỏ rồi xì xào gì đó với nhau. Mấy
tay có nhóm máu “D” mắt cứ sáng rực cả lên nhưng đành chịu vì có lệnh tuyệt đối
không được rời xe đề phòng máy bay đánh còn cơ động.
Mãi
đến chiều hôm sau, khi đại đội trưởng, đại đội phó và chính trị viên nhận lời
ghé thăm nhà trung đội trưởng Đậu Minh Tiến, còn chính trị viên phó Toàn đang mải
chỉ huy đám nuôi quân nấu nướng bữa chiều Tráng với Bình mới mò được vào xóm.
Chẳng biết các chàng khua môi múa mép thế nào mà một lúc sau đã thấy hai anh dẫn
một đoàn hàng chục em ra xem xe tăng(!). Nghe nói Nghệ Tĩnh này nhiều nắng, lại
có gió Lào mà sao con gái lại xinh thế kia, nước da em nào em ấy cứ trắng hồng
cả lên, lại bạo dạn nữa chứ. Mấy em cứ xúm lại xe hỏi hết cái này đến cái khác,
tiếng thì toàn “mô, tê, răng, rứa” nhưng nghe cũng thấy dễ thương đáo để.
Cánh
lính trẻ chắc là cũng thích nhưng ngượng nên chỉ trả lời gióng một. Bọn Nguyên, Đạt, Khoa, Hùng… thì nhận được đồng
hương cứ tíu tít cả lên. Chỉ có anh Tráng, anh Bình và anh Phong trở thành những
hướng dẫn viên nhiệt tình nhất cho các em. Tráng dẫn ba cô về xe mình, hắn ba
hoa:
-
Đấy các em xem, vỏ thép dày như thế này cơ mà, bọn anh ngồi trong xe là yên
tâm, “nỏ có đạn mô bắn thủng được”, Tráng người Thanh Hóa nên bắt chước giọng
Nghệ An thì quá dễ.
Nghe
vậy mấy em cùng cười ré lên, tíu tít hỏi:
-
Rứa các anh “mần răng” mà đánh nhau được?
Tráng
chỉ vào khẩu pháo 100 ly và khẩu đại liên, giọng càng hùng hồn hơn:
-
Bọn anh có một khẩu pháo, ba khẩu đại liên cơ mà, “pháo ni mà đã bắn nỏ có thằng
mô sống được”. Hắn lại nhại giọng Nghệ Tĩnh, các em càng khoái tợn.
-
Nhưng “mần răng các anh bắn được tề”? Một cô gặng.
Tay chỉ vào cửa kính ngắm
Tê-Sa hắn giải thích:
-
Bọn anh ngắm qua cái lỗ kính này này, khi nào ngắm trúng một cái là chỉ việc
bóp cò thôi.
Một
cô có vẻ bạo dạn nhất với tay lên sờ vào nòng pháo, đẩy qua đẩy lại không thấy
nhúc nhích gì lại hỏi:
-
Pháo to thế ni mần răng các anh quay được?.
Mắt
Tráng sáng hẳn lên:
-
Muốn xem mần răng mà quay được thì phải vào trong xe cơ chứ đứng ngoài này thì
khó giải thích lắm.
Được
lời như cởi tấm lòng, cả mấy cô vui hẳn lên:
-
Cho bọn em lên xem đi.
Tráng
làm ra bộ quan trọng:
-
Trong xe là bí mật quân sự, đáng lẽ người ngoài không được vào đâu nhưng anh ưu
tiên các o đấy. Nhưng nhớ là phải trật tự nhé!
Cả
ba cô lặng lẽ theo Tráng ra chỗ thành xe bên phải để leo lên nhưng hì hụi mãi vẫn
không lên được. Lúc ấy Tráng mới ra tay, hắn bế bổng từng em một đưa lên thành
xe. Mặc hai tay các em đã bám được vào tay vịn bộ binh rồi hắn vẫn cứ ôm chặt lấy
hai đùi người ta, mũi thì cứ giúi vào sườn các em mà hít lấy hít để. Đưa được
ba cô lên xe Tráng mới trèo lên mở cửa trưởng xe chỉ vào bên trong:
-
Đây là chỗ của anh, hắn chỉ vào ghế pháo thủ, anh ngồi đấy, mắt đặt vào ống
kính Tê-Sa này, hai tay cầm tay tầm, tay hướng quay là pháo quay theo ngay.
Cô
bạo dạn nhất đề nghị:
-
Cho em quay thử đi anh!
Tráng
nhìn quanh không thấy ai để ý, hắn đồng ý và hướng dẫn cô gái vào xe. Khi cô
gái đã ngồi vào ghế pháo thủ hắn chui vào ghế trưởng xe và hạ cửa xuống. Không
biết Tráng giới thiệu những gì, chỉ biết khi ra khỏi xe hai má cô y sỹ tương
lai cứ rực lên như hai trái bồ quân, tóc tai thì rối bù nhưng hai mắt thì sáng
rực.
Bên
xe mình Bình cũng đang nhiệt tình giới thiệu với bốn, năm cô nhưng đến khi các
cô đòi lên xe thì hắn không dám. Hắn vốn “nhát như cáy ngày” mà.
Còn
Phong đúng là thằng “dại gái”, mới tíu tít một hồi đã thấy Phong mang ra hộp sữa
bột tiêu chuẩn đi B để các em giải khát.
Ở
chỗ nhận đồng hương Khoa, Nguyên, Hùng, Đạt đã lấy sổ ghi địa chỉ các em. Chẳng
biết chúng nói chuyện gì với nhau mà mắt các em đều rơm rớm.
Cuộc
hội ngộ bất ngờ chỉ kết thúc lúc còi ăn cơm chiều vang lên, các cô gái bịn rịn
mãi rồi mới lục tục kéo nhau ra về.
Tưởng
chỉ phải chờ đợi vài ngày, nào ngờ phải gần nửa tháng mới có tàu. Bà con ở đây
tốt thật nhưng phải cái nghèo, mặc dù vậy có củ khoai luộc, nồi nước chè xanh
cũng để phần cho bộ đội. Những người lính xe tăng ăn tiêu chuẩn tương đối cao
nên mấy cậu lính trẻ cứ ăn gần xong lại đơm một bát cơm đầy mang về nhà bảo để
lúc đói thì ăn nhưng thực ra là đem cho lũ trẻ.
Mọi
người thì ngao ngán nhưng có lẽ phấn khởi nhất là cánh nhóm máu “D”. Cứ rảnh
lúc nào là chuồn lúc ấy, đến mức hiền như chính trị viên Đán cũng phải vỗ vai
Tráng mà bảo:
-
Liều liệu đấy nhé! Đừng để người ta đến bắt đền hay để lại đây cái “xe tăng
con” thì khổ cho người ta.
Tráng
chỉ cười rồi chống chế:
-
Chính trị viên cứ yên tâm, bọn em chỉ qua chơi một chút cho đỡ buồn chứ có làm
gì đâu.
Mấy
đứa quê Diễn Châu, Nghi Lộc xin về không được nhưng đã nhắn được người nhà lên
chơi. Dẫn bố mẹ và các anh em đi xem xe tăng bọn hắn có vẻ tự hào lắm.
Đợi
mãi rồi tàu cũng đến. Nghe thông báo có tàu cả đại đội lại tíu tít làm công tác
chuẩn bị. Cuộc chia tay với bà con nơi trú quân cũng thật bịn rịn, mới đó mà đã
thân thuộc như người nhà. Các em y sĩ tương lai thì còn phải nói, có cô khóc
như mưa như gió.
Chiều
tối cả đại đội hành quân lên đê sông Lam. Tối được một lúc thì tàu hải quân đến,
cả đại đội ngao ngán “tưởng tàu to chở một chuyến tám cái xe tăng, nào ngờ bé
tin hin, mỗi tàu chỉ chở được một cái”. Ngao ngán thì ngao ngán vậy, có tàu mà
đi còn hơn nằm vạ vật ở đây, thích ở lại chắc chỉ có Tráng, Bình, Phong.
Đại
đội trưởng Nghĩa tập hợp toàn đại đội rồi phổ biến:
-
Thứ tự xuống tàu vẫn như khi hành quân bộ, xe tôi xuống đầu tiên, sau đó là
trung đội Một, trung đội Hai, cuối cùng là xe anh Đán. Khi xe xuống tàu tất cả
phải xuống xe, chỉ mình lái xe ở lại điều khiển xe. Đồng chí Đề đại đội phó kỹ
thuật sẽ trực tiếp chỉ huy từng xe xuống tàu. Các đồng chí lái xe chú ý thao
tác cẩn thận, căn hướng cho thật cân, chân dầu phải ổn định. Sau khi xe đã dừng
hẳn các thành viên mới xuống tàu để chằng buộc, cố định và đậy bạt. Trong quá
trình hành quân tất cả mọi người phải mặc áo phao và tuyệt đối phục tùng sự chỉ
huy của thuyền trưởng. Bộ phận “xê bộ” chia ra đi với các xe.
Chưa
hình dung ra đi biển thế nào, thấy cánh lính trẻ im ro có vẻ căng thẳng, Nghĩa
trấn an:
-
Đây là loại tàu chuyên chở xe tăng, tên của nó là “tăng-kít”. Vì vậy các đồng
chí cứ yên tâm, sẽ không có vấn đề gì xảy ra đâu.
Nói
thì nói vậy chứ bản thân Nghĩa cũng chưa biết sẽ xảy ra chuyện gì.
Chiếc
tàu đầu tiên đã cập bến, cánh cửa phía sau của nó hạ xuống như một cái cầu. Có
vẻ hiểu biết, Nguyễn Bá Tùng thì thầm:
-
À! Đây là tàu “há mồm” đấy mà. Xem phim màu chiến đấu Liên Xô thấy nó chạy ghê
lắm, lao hẳn lên bãi biển rồi há mồm ra cho xe tăng xuống.
Trên
cầu tàu đại đội phó Đề đã sẵn sàng, anh cúi người nhìn chăm chăm vào băng xích
bên trái, tay cầm cái đèn pin lúc vẩy lên, lúc vẩy xuống, lúc sang phải, lúc
sang trái. Bình ngồi thoải mái trong ghế lái, cậu biết rằng lúc này không được
quá căng thẳng. Theo tín hiệu của Đề cậu ta nhẹ nhàng tăng chân dầu cho xe tiến
lên, hai băng xích đã bám vào cầu tàu, chiếc xe tiếp tục trườn lên, mũi tàu dìm
hẳn xuống và chỉ trở lại cân bằng khi xe đã vào hẳn trong lòng tàu.
Nghĩa
bắt tay Đề rồi giục các thành viên lên tàu, cửa tàu đóng lại. Được sự giúp đỡ của
các chiến sĩ hải quân mấy anh em nhanh chóng chằng buộc cố định xe rồi phủ bạt
lên. Mấy phút sau tiếng máy tàu rộ lên, con tàu từ từ lùi ra rồi quay mũi về hướng
Đông.
Phải
mất hơn hai tiếng đồng hồ mới đưa hết toàn đại đội xuống tàu và chằng buộc
xong, Đề là người cuối cùng bước lên con tàu thứ tám trước khi nó kéo cửa lên.
Ga Vĩnh Yên |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét