Cũng giống như Cân. Biết tin Nhã
còn sống, đơn vị lại vừa thắng lớn tại Đắc Tô- Tân Cảnh nhưng Thắng cũng không
thể nào vui lên được- trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triệu- người anh thân thiết,
người bạn tâm giao của anh đã hy sinh anh dũng cùng kíp xe 377. Dẫu biết trong
chiến tranh hy sinh, mất mát cũng là chuyện thường tình thế nhưng cái chết của
Triệu và kíp xe 377 vẫn để lại trong lòng Thắng một dư âm hết sức nặng nề.
Chiều ngày hôm sau trận đánh
Thắng được lệnh đánh chiếc xe dắt cùng tổ hậu cần, kỹ thuật đi cứu kéo xe hỏng
và làm công tác thương binh, liệt sĩ. Sau khi khắc phục mấy chiếc xe hỏng ở căn
cứ Tân Cảnh xong đội của anh mới phóng lên Đắc Tô 2. Vừa lên đến đỉnh dốc Ngã
Ba một cảnh tượng vô cùng bi tráng đã hiện ra trong ánh hoàng hôn đỏ rực: cách
đó chừng 600 mét, nằm ngay bên vệ đường là một chiếc xe T59 đen thui, nòng pháo
thăng bằng hướng về phía trước như vẫn đang sẵn sàng nhả đạn. Dẫu không còn
nhìn thấy số hiệu nữa nhưng Thắng biết chắc chắn đó là xe 377. Xung quanh nó là
xác 9 chiếc xe tăng, thiết giáp Mỹ. M41 có, M113 có cháy đen nằm la liệt, nòng
pháo gục xuống bẽ bàng, có chiếc vẫn đang âm ỉ khói. Thắng phóng hết tốc lực
đến cạnh chiếc 377.
Xe vừa dừng Thắng đã nhảy phốc ra
khỏi buồng lái. Không chờ mọi người trong đội anh trèo vội lên thành xe. Các
cửa xe vẫn đóng kín. Loay hoay mất một lúc Thắng mới mở được cửa trưởng xe ra.
Nhưng đập vào mắt anh là một màu đen kịt, không có ai ở trong ấy. Thắng vội
quay xuống hối hả giục mọi người trong đội tìm kiếm xem có anh em nào ở xung
quanh đó không. Vừa lúc đó một tốp chiến sĩ bộ binh kéo đến. Thấy các anh lùng
sục xung quanh một người đã cứng tuổi bảo: “Đừng tìm nữa! Không có ai ở trong
xe nhảy ra đâu! Tất cả vẫn còn nguyên trong ấy”. Rồi anh ta kể mà mắt cứ rưng
rưng: “Tôi là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3, trung đoàn 1 của sư H. Hôm qua
chúng tôi có nhiệm vụ tiến công cứ điểm Đắc Tô 2 này. Tầm chín giờ sáng, khi
chúng tôi đã chiếm được một phần căn cứ và một góc sân bay Đắc Tô 2 thì bọn
địch ra phản kích. Hơn hai chục chiếc xe tăng dàn hàng ngang theo đường băng
sân bay và đường 18 lao ra bọc lấy chúng tôi. Đi sau chúng lốc nhốc dễ phải đến
hơn tiểu đoàn bộ binh. Đạn các loại trên xe tăng vãi như trấu làm chúng tôi
không ngóc đầu dậy được. Trong lúc đó cơ số đạn chống tăng mang theo đã gần như
cạn kiệt. Nguy cơ bị tiêu diệt gọn đã hiện ra ngay trước mắt. Chúng tôi phải
lợi dụng từng mô đất, từng đoạn hào để chống đỡ nhưng không lại. Muốn rút lui
cũng khó khăn bởi đã bị địch bao vây ba phía- Nói đến đây anh đưa cái ống tay
áo nhem nhuốc của mình quệt ngang mắt- Đúng lúc đó chiếc xe tăng này xuất hiện.
Tôi còn nhớ rõ nó có số 377. Từ trên dốc Ngã Ba kia nó lao thẳng vào đội hình
xe tăng địch như một con mãnh hổ. Khẩu pháo trên xe cứ một lát lại khạc ra một
bụm lửa sáng lòa. Đám xe tăng địch khựng cả lại và tập trung bắn vào xe này.
Vượt qua chỗ chúng tôi rồi thì chiếc xe 377 dừng lại đúng chỗ này, chắc là để
lợi dụng bờ đường che chắn và lần lượt bắn cháy bốn chiếc xe tăng địch. Nhờ vậy
chúng tôi củng cố lại được đội hình chiến đấu. Nhưng vừa diệt được chiếc thứ tư
thì xe 377 cũng trúng đạn. Tôi nhìn rõ ngọn lửa bốc lên dữ dội ở phía sau xe,
khói đen mù mịt. Nhưng lạ một điều là không thấy một ai nhảy ra cả. Lúc ngọn
lửa đã trùm cả lên tháp pháo rồi mà pháo vẫn còn nổ một phát nữa thiêu cháy
chiếc thứ năm- Một lần nữa người tiểu đoàn trưởng bộ binh quệt tay lên mắt, anh
dừng lại một lát rồi mới sụt sịt kể tiếp- Ngay sau đó khói lửa trùm kín lấy xe. Đúng lúc
ấy hai chiếc xe của ta từ phía sau tiến đến nơi và diệt thêm mấy chiếc tăng nữa.
Tiểu đoàn của tôi lập tức bám theo xe tăng để đánh địch phản kích. Tôi vừa chạy
vừa ngoái nhìn về chiếc 377 đang cháy bùng bùng mà không thể nào cầm được nước
mắt. Chính nó, chính chiếc xe này đã cứu chúng tôi. Nó mà không đến kịp chắc
tiểu đoàn tôi đã bị ăn gỏi mất rồi”. Thắng lặng người đi, mắt rân rấn nước. Cả
tổ hậu cần, kỹ thuật của anh, cả tốp chiến sĩ bộ binh cũng đứng lặng phắc, mắt
người nào người ấy đỏ hoe. Lặng đi một lúc người chỉ huy bộ binh mới nhắc chiến
sĩ của mình: “Bày lễ ra đi!”. Các chiến sĩ bộ binh mở ba lô, lẳng lặng đặt lên
thành xe bên trái bốn nắm cơm nắm, bốn hộp thịt hộp, một con gà luộc, một bó
hoa rừng và một nắm hương to. Một cái vỏ đồ hộp được một chiến sĩ vục đầy thứ
bụi đỏ cao nguyên để lên làm bát hương. Thấy vẻ ngạc nhiên của Thắng người cán
bộ giải thích: “Trong thị trấn Tân Cảnh đấy. Sáng nay tôi giao cho mấy tướng
này bằng mọi giá phải kiếm cho tôi con gà với nắm hương. Anh em người ta hy
sinh anh dũng như thế để cứu mạng mình thì mình cũng phải báo đáp chứ!”. Thắng
nghẹn lời không biết nói gì. Các chiến sĩ bộ binh không cùng đơn vị mà họ chu
đáo như vậy, thế mà các anh đi tìm đồng đội chỉ với hai bàn tay trắng với mấy
cái túi ni- lon.
Người chỉ huy bộ binh ra hiệu cho
chiến sĩ của mình đứng thành một hàng ngang. Toàn tổ của Thắng cũng tự động
đứng thành một hàng phía sau. Liếc qua thấy hàng ngũ đã chỉnh tề anh ta tiến
lại cạnh chiếc xe bật lửa thắp hương. Gió cao nguyên lồng lộng nên mãi một lúc
sau bó hương mới bén lửa. Đưa cho mỗi người một nén hương anh bảo: “Thắp cho
các anh ấy đi!”. Đợi mọi người trở về hàng anh tiến lên một bước, chắp hai tay
vái ba vái một cách thành kính và lầm rầm khấn. Tiếng anh ta tuy nhỏ nhưng
trong cái tĩnh mịch sâu lắng của buổi hoàng hôn Thắng vẫn nghe rõ từng lời: “Việt
Nam dân chủ cộng hòa quốc, Kon Tum tỉnh, Đắc Tô huyện. Hôm nay là ngày 25 tháng
4 năm 1972, tức ngày 12 tháng 3 năm Nhâm Tý. Cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 3, trung
đoàn 1, sư đoàn H kính cẩn thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh trong
trận Đắc Tô 2. Kính thưa hương hồn các liệt sĩ xe tăng 377! Chúng tôi không
biết tên các anh để gọi nên xin gọi chung các anh như thế. Hôm qua các anh đã
hy sinh anh dũng để cho chúng tôi được sống và chiến thắng. Nếu không có các
anh chắc chắn tiểu đoàn chúng tôi đã bị xe tăng địch nghiền nát và hôm nay
chúng tôi cũng không còn đứng được ở đây để thắp hương cho các anh. Các anh đã
hy sinh oanh liệt vì Tổ quốc, vì đồng đội. Cầu mong các anh được mồ yên, mả
đẹp, phù hộ độ trì cho đất nước, cho chúng tôi sớm giành được thắng lợi! Một
phút mặc niệm, bắt đầu!”.
Một ngọn gió bỗng bất thần lồng
lên, bó hương bốc lửa cháy đùng đùng. Người chỉ huy bộ binh lầm rầm: “Các anh ấy
về đấy! Xin các anh chứng cho lòng thành của chúng tôi!”. Nghe đến đây Thắng
không nén nổi lòng mình nữa, anh khóc òa lên như một đứa trẻ. Trong đầu anh
hiện lên rõ mồn một hình ảnh trung đội trưởng Triệu quắc thước, nóng nảy nhưng
bộc trực, chân thành. Lái xe Vinh mảnh khảnh, lúc nào cũng nhí nhảnh, yêu đời. Pháo
thủ Cao thì hiền lành, chất phác. Còn pháo hai Tiến thì chắc nịch, gan lỳ cóc
tía. Tiếng khóc như có sức lây lan. Cả hàng quân người sụt sùi, người nức nở,
cậu Độ thợ cơ còn quỳ sụp xuống lạy như tế sao.
Khi nắm hương đã cháy hết người
tiểu đoàn trưởng bộ binh rút dao găm xẻ đôi con gà, anh đưa cho Thắng và bảo:
“Theo tôi các anh không nên kéo chiếc xe này về làm gì. Dù sao nó cũng đã cháy
rồi, không thể sửa chữa được nữa. Hãy để nó ở nguyên chỗ này để làm một tượng
đài về lòng dũng cảm vô song của những người chiến sĩ xe tăng”.
Tốp bộ binh đi rồi Thắng lại trèo
lên xe. Anh bật đèn pin lên. Dưới ánh
sáng của chiếc đèn pin chỉ thấy lổng chổng đống vỏ đạn pháo. Những quả đạn pháo
chưa dùng đến chắc đã bị kích nổ làm cái buồng chiến đấu trở thành một mớ hỗn
độn, ngay cả ghế của các thành viên cũng
không cái nào còn nguyên vẹn. Thắng nuốt nước mắt bảo mấy anh em trong đội dọn
sạch vỏ đạn và những mảnh kim loại vung vãi rồi hót hết tro ở dưới sàn xe gói
vào một tấm ni- lon. Dù sao cũng có cái để mà mai táng. Còn không phân biệt
được ai với ai thì cũng có sao đâu. Khi còn sống họ đã coi nhau như ruột thịt.
Đến bây giờ chết rồi xương thịt của họ lại hòa lẫn với nhau thì cũng có sao đâu.
Mấy anh em vừa dùng những tấm bìa vun tro lại vừa thút thít khóc.
Soi kỹ một lần nữa trong buồng chiến đấu Thắng chợt
giật mình khi phát hiện thấy dưới mấy cái vỏ đạn trên vành tháp pháo một tảng
tro đen ngời như tảng than kíp- lê. Đưa lên tận mắt nhìn Thắng nhận ra đấy là
một nắm cơm đã cháy đen nhưng vẫn còn nguyên hình dạng. Nước mắt anh lại trào
ra đầm đìa. Vậy là các anh ấy đã không kịp ăn bữa sáng hôm qua, chắc là do
nhiệm vụ quá khẩn trương, gấp gáp. Thắng bồi hồi nhớ lại buổi tối hôm kia chính
anh đã trao cho pháo hai Tiến nắm cơm này. Lúc đó cậu ta còn nhăn răng cười:
“Anh có tăng cường thêm cho bọn em tý nào không đấy?”. Thật khổ, tiêu chuẩn
chiến trường eo hẹp, đi đánh nhau mà cả kíp xe chỉ có một nắm cơm bé tẹo với tý
ruốc mặn. Thế mà lại chẳng kịp ăn! Thắng quyết định gói cả nắm cơm cháy đem về.
Từ hôm ấy Thắng như trở thành một con người khác.
***
Chính ủy Ngọc đi rồi còn lại một mình ở tiền phương
nhiều lúc phó tư lệnh Đào cũng cảm thấy trống trải. Dù sao có ông Ngọc ở đây
mỗi khi tình huống xảy ra có người mà bàn bạc, trao đổi vẫn hơn. Nói cho công
bằng chính ủy Ngọc không phải là dân gốc xe tăng, hiểu biết về chiến thuật cũng
mức độ nhưng được cái chín chắn, mềm mỏng. Nhiều lúc vui chuyện ông vẫn trêu
chính ủy Ngọc là “ông Bụt”. Những cuộc họp do ông duy trì đang căng như sợi dây
đàn chỉ cần chính ủy Ngọc xuất hiện với nụ cười hiền lành và dáng vẻ điềm đạm
lập tức sẽ chùng lại, mềm đi, anh em người ta phát biểu cũng thoải mái hơn. Phó
tư lệnh Đào tự dặn mình sẽ phải cố gắng để làm thay cả phần việc của người chính
ủy để lại. Tuy nhiên, ông biết điều đó thật khó khăn.
Hai hôm nay ông lại đi kiểm tra một vòng công tác
chuẩn bị cho đợt Hai chiến dịch của hai trung đoàn. Có lẽ đã thấm thía bài học
xương máu của những trận đánh không thành công hôm trước nên công tác chuẩn bị
của các đơn vị chu đáo hơn bao giờ hết. Kế hoạch cơ động lực lượng và kế hoạch
chiến đấu của H02 được làm tỷ mỷ đến từng chi tiết nhỏ, đã dự kiến được những
tình huống thường xảy ra và cách xử trí rất cụ thể. Còn ở H03 vấn đề khó khăn
nhất là tổ chức đào công sự và bí mật đưa xe tăng vào cũng đã được tháo gỡ. Đại
đội công binh của trung đoàn đã tổ chức thực nghiệm đào công sự bắn cho xe tăng
rất thành công, thời gian còn nhanh hơn cả dự kiến. Vấn đề đặt ra bây giờ là
việc hiệp đồng với pháo binh sao cho khớp nữa thôi.
Trở lại vấn đề này máu nghiên cứu trong phó tư lệnh
Đào lại nổi lên. Quả thật việc tổ chức trận địa bắn ngắm trực tiếp cho xe tăng
là một phát hiện rất mới, rất độc đáo của xe tăng Việt Nam và có lẽ sẽ còn được
sử dụng nhiều ở Việt Nam. Là một chiến trường mà địa hình phổ biến là đồi núi,
các cứ điểm địch cũng thường xây dựng trên các điểm cao có ý nghĩa chiến thuật.
Vì vậy thông thường chính diện triển khai xe tăng hết sức hạn chế, thường chỉ
được một trung đội, thậm chí có khi còn phải đánh theo hàng dọc. Địa hình lại
bị chia cắt nên tốc độ tiến công cũng sẽ rất chậm và đặc biệt là rất khó phát
huy hỏa lực tiêu diệt mục tiêu. Trong trường hợp đó trận địa bắn ngắm trực tiếp
sẽ là cứu cánh. Chỉ cần một trung đội xe tăng trong công sự sẽ dễ dàng quét
sạch các mục tiêu ở tiền duyên địch trong vòng vài phút, sẽ yểm trợ đắc lực cho
đội hình chủ lực xung phong. Tại vị trí đó xe tăng cũng có thể dùng pháo diệt
các mục tiêu trong chiều sâu phòng ngự địch để chi viện lực lượng chính phát
triển chiến đấu. Hoàn thành nhiệm vụ bắn trực tiếp rồi chính trung đội này có
thể tham gia xung phong, đánh địch phản kích, truy kích địch rút chạy hoặc
chuyển sang làm nhiệm vụ khác. Có lẽ sau trận này phải nhanh chóng tổng hợp,
rút kinh nghiệm và phổ biến rộng rãi trong binh chủng, rồi còn phải đưa vào
giáo trình huấn luyện chiến thuật ở các nhà trường. Đầy hứng khởi phó tư lệnh
Đào mở cuốn sổ tay dày đặc chữ của mình lật một trang mới và nắn nót viết một
hàng chữ in: “TỔ CHỨC TRẬN ĐỊA XE TĂNG BẮN NGẮM TRỰC TIẾP- MỘT KINH NGHIỆM HAY
CẦN PHỔ BIẾN RỘNG RÃI”.
Nhoáng một cái ông đã lia được hơn chục dòng thứ chữ
nhỏ ly ty như con kiến nhưng đều tăm tắp. Nhưng rồi ông lại đặt bút xuống trầm
ngâm. Không, có lẽ cần phải suy nghĩ kỹ hơn. Đúng là hay thật đấy nhưng không
phải không có những khó khăn cần tháo gỡ. Làm thế nào để đào được công sự một
cách bí mật? Đưa xe tăng vào thế nào? Không quân địch mạnh như thế liệu một
trận địa bắn lồ lộ ra đó có tồn tại được không? Lại còn vấn đề đạn nữa chứ, cơ
số đạn của T54 chỉ có hơn ba chục viên. Với tốc độ bắn khi tại chỗ lên tới 6- 7
phát một phút thì mấy mà hết, lúc chuyển sang làm nhiệm vụ khác thì đạn lấy đâu
ra? v.v… Có lẽ phải trả lời được thấu đáo những câu hỏi này thì mới đem áp dụng
rộng rãi được. Và các trận đánh của H03 sắp tới sẽ lại là một thử nghiệm để tìm
ra những câu giải đáp này. Nghĩ đến đây ông quyết định gập sổ lại và bước ra
ngoài hầm vươn vai mấy cái. Nhìn bầu trời đầy mây và không còn xanh ngắt như
mọi ngày ông thấy thoáng chút lo lắng: “Mùa mưa năm nay có vẻ đến hơi sớm. Nếu
không đánh nhanh chắc chắn sẽ gặp khó khăn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét