Chương 13
Dường như đã qua được cơn hoảng loạn ban đầu nên bọn
địch khẩn trương củng cố lại hệ thống phòng thủ đã bị vỡ một mảng quan trọng.
Sáng mồng Hai tháng Tư đích thân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay ra thị sát
chiến trường Quảng Trị và chủ trì cuộc họp của Bộ tư lệnh quân đoàn 1 nhằm tìm
giải pháp cứu nguy cho chiến trường trọng điểm bậc nhất này. Hắn cao giọng ngợi
ca “tinh thần quả cảm vô song của binh lính đồn trú ở vùng biên ải”, khích lệ
các lực lượng “tiếp tục tử thủ đến cùng, quyết ngăn chặn bằng được cuộc xâm
lăng của Bắc Việt” và hứa “sẽ chi viện tối đa sức người, sức của”. Bộ chỉ huy
quân viễn chinh Mỹ cũng hứa sẽ chi viện tối đa không quân, pháo binh và pháo
hạm, kể cả máy bay chiến lược B52. Trung tướng Hoàng Xuân Lãm và chuẩn tướng Vũ
Văn Giai thì thề sống thề chết sẽ đẩy lui bằng được “cuộc tiến công của Cộng
quân”.
Thực hiện lời hứa của mình, chỉ trong vòng hai ngày
Sài Gòn đã tổ chức không vận cấp tốc lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369, ba liên
đoàn biệt động quân số 4, 5, 6 từ biệt khu Thủ đô, quân khu 2 và quân khu 4 ra
tăng viện cho chiến trường nóng bỏng này. Hai tàu khu trục và một tàu sân bay
của Hạm đội 7 đã được điều đến vùng biển quân khu 1. Tướng Lãm và tướng Giai
cũng đã tổ chức tái phối trí lại lực lượng, chúng tập trung xây dựng cụm căn cứ
Đông Hà, Ái Tử, La Vang làm trung tâm cho tuyến phòng ngự mới. Các thiết đoàn
17, 20 chỉ để lại một bộ phận ở trung tâm còn lại được xé nhỏ ra thành các chi
đoàn, chi đội tăng cường cho các cứ điểm bên ngoài tạo thành một lớp vỏ cứng.
***
Với nhận định địch tuy đã được tăng cường lực lượng
đáng kể nhưng vẫn đang hoang mang tột độ, Bộ tư lệnh mặt trận B5 quyết định đẩy
mạnh tiến công không cho địch kịp củng cố hệ thống phòng thủ. Tư lệnh mặt trận
quyết định sử dụng cánh bắc tiến công vào cụm địch ở Đông Hà- Lai Phước. Cánh
tây tiến công địch ở Ái Tử, khống chế cầu Quảng Trị chặn đường rút lui của
địch. Cánh nam đánh địch ở La Vang- Tích Tường, cắt giao thông trên quốc lộ Một
từ cầu Nhùng đến cầu Mỹ Chánh. Cánh đông sẽ thọc sâu xuống duyên hải, hỗ trợ
nhân dân nổi dậy làm chủ hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng và ngăn chặn không cho
địch rút chạy ra biển. Các tiểu đoàn xe tăng 512 và 397 tiếp tục được sử dụng
tại cánh bắc và cánh tây. Tiểu đoàn 66 đã được rút ra bắc củng cố lực lượng và
tiếp tục làm dự bị cho mặt trận. Ngày Mồng Chín tháng Tư đợt tiến công mới đồng
loạt được phát động trên tất cả các hướng.
Tuy nhiên, ngay ngày chiến đấu đầu tiên kết quả thu
được không như mong đợi. Quân ta không những không phá vỡ được các cụm cứ điểm
mà còn bị thiệt hại khá nặng. Lực lượng xe tăng cũng bị tổn thất khá nhiều.
Tiểu đoàn 512 tăng cường cho cánh bắc tiến công Đông Hà, Lai Phước bị xe tăng
địch bắn cháy mất 7 xe. Cánh tây báo cáo về một tiểu đoàn bộ binh được tăng
cường đại đội xe tăng 1 của tiểu đoàn 397 sau khi đã chiếm được căn cứ Phượng
Hoàng lại để địch phản kích lấy lại và bị mất 4 xe… Những tin tức không mấy
phấn khởi liên tục dội về làm không khí ở sở chỉ huy mặt trận càng lúc càng
thêm nặng nề. Tư lệnh mặt trận quyết định tạm dừng tiến công để rút kinh
nghiệm.
***
Từ hôm biết tin tiểu đoàn 66 bị thiệt hại phải đưa ra
bắc củng cố phó tư lệnh Đào trở nên khó ngủ, cái đầu thì ong ong như có con gì
đang đục khoét bên trong. Lúc nào cũng thấy ông nhăn nhăn nhó nhó. Biết rõ lý
do, chính ủy Ngọc thường xuyên an ủi ông rằng “chiến tranh là phải có tổn thất,
có trận thắng trận thua, chẳng ai có thể lường trước được hết mọi cái”. Tuy
nhiên những lời an ủi ấy hầu như không có tác dụng. Đêm nào ông cũng ôm khư khư
cái ra- đi- ô nghe hết đài này sang đài khác đến gần sáng mới chợp măt được một
lúc.
Đêm nay cũng vậy, ông lại thao thức. Chiếc ra- đi ô
vẫn tiếp tục phát đi các chương trình của nó nhưng đầu óc ông đang để tận đâu
đâu ấy. Lúc sẩm tối nhận được báo cáo của H03 về tình hình tác chiến của các
tiểu đoàn 512 và 397 mặc dù còn rất sơ bộ nhưng đã làm ông sây sẩm mặt mày. “Thằng”
66 bị thiệt hại nặng còn có thể lý giải được vì lý do tổ chức tiến công theo
một loại hình tác chiến hoàn toàn mới trong điều kiện không nắm được tình hình
địa hình và địch. Còn các đơn vị của H03 thì đều tiến công địch trong công sự
vững chắc, một hình thức tác chiến đã rất quen thuộc với xe tăng, có rất nhiều
kinh nghiệm đã được đúc kết và phổ biến cho bộ đội. Hơn thế nữa lại đã có thời gian chuẩn bị chiến trường khá lâu, địa
hình cũng như tình hình địch nắm tương đối chắc. Thế mà lại tổn thất đến gần 50
phần trăm lực lượng thì không thể nào chấp nhận được. Phải có một lý do nào đó
chứ? Có lẽ rất cần phải có một cuộc họp rút kinh nghiệm với hai trung đoàn chứ
“làm ăn” thế này thì mất mặt quá. Đầu óc ông cứ lan man lật đi lật lại vấn đề
tìm lý do của thất bại. Tại chủ quan khinh địch ư? Rất có thể. Cứ nghĩ nó đang
hoảng loạn mà tồng tộc lao vào thì chết là phải. Nhưng có lẽ không phải vậy.
Trước cái sống cái chết có mấy ai dám chủ quan. Hay là do trình độ của anh em mình?
Sức mạnh hỏa lực của T54 và M48 là tương đương nhau, lúc đối mặt chỉ cần nhanh
tay hơn một tích tắc là nắm được phần thắng. Nhưng nào đâu đến nỗi vậy, cán bộ
chiến sĩ của H03 đa số đã được huấn luyện rất cơ bản từ ngoài kia. Sau khi điều
động vào đây lại được huấn luyện bổ sung khá bài bản. Lại còn cái “thằng” 397
nữa, đã đánh chiếm được cứ điểm địch rồi tổ chức phòng ngự lâm thời như thế nào
mà đến nỗi bị chúng phản kích đánh cho tơi bời… Những câu hỏi cứ nối tiếp nhau
mà không có câu trả lời rõ ràng. Như vậy nhất thiết phải tổ chức rút kinh
nghiệm ngay.
Trong lúc đầu óc vẫn lan man với những ý nghĩ tản mạn
ấy cái tay của ông theo thói quen vẫn vặn núm tần số chuyển sang đài khác khi
vừa hết bản tin thời sự của đài Tiếng nói Việt Nam . Chợt ông nhổm phắt dạy, đài
Sài Gòn vừa nhắc đến mấy từ “xe tăng H03”. Ông vội dò lại sóng và vặn to núm âm
lượng. Tiếng con “thiên nga” trong chương trình “Nhịp cầu yêu thương” thẽ thọt
vang lên:
“Sáng nay
ngày 9 tháng Tư năm 1972 các chiến sĩ quân lực Việt Nam cộng hòa trên mặt trận
Quảng Trị đã anh dũng tái chiếm được căn cứ Phượng Hoàng, tiêu diệt gọn một
chiến đoàn thiết xa của cộng quân Bắc Việt, bắt sống 1 chiến xa T54. Sau đây là
danh sách các chiến binh xe tăng cộng sản đã tử thương tại trận. Một: trung úy
Ngô Văn Nhã, quê quán Hà Bắc, đại đội trưởng. Hai: trung úy…”
Không kịp cả xỏ dép phó tư lệnh Đào chạy vội sang
ngách hầm của chính ủy Ngọc. Ông Ngọc đang nghe chương trình “Đọc truyện đêm
khuya” thấy người đồng sự bất ngờ xuất hiện vội nhổm dậy. Ông Đào vặn to âm
lượng lên và chỉ vào cái ra- đi- ô trên tay mình ra ý: “hãy nghe”. Chính ủy
Ngọc vội tắt ra- đi- ô của mình. Ông giật bắn mình vì những gì nghe được. Một
danh sách hơn ba chục cán bộ, chiến sĩ với đầy đủ cấp bậc, chức vụ, quê quán
đang được đọc rành giọt trên đài. Khi danh sách được đọc lại lần thứ hai ông
Đào tắt ra- đi- ô, cả hai ngồi trầm ngâm trong ánh sáng leo lét của ngọn đèn
dầu trong góc hầm. Cuối cùng chính ủy Ngọc lên tiếng:
- Không thể nào thế được! Cánh tây báo về chỉ mất có 4
xe, làm sao hy sinh cả đại đội được?- Ông bỗng ngước lên nhìn ông Đào, mắt sáng
rực- À! Mà tại sao nó lại có danh sách của cả đại đội được nhỉ? Lại còn không
thiếu một chi tiết nào, cứ y như là bản trích ngang đơn vị ấy!
Ông Đào gật đầu:
- Tôi cũng thấy lạ! Chắc có chuyện gì uẩn khúc ở đây.
Để tôi gọi xuống H03 xem sao!- Nói rồi ông quay lại góc hầm thùng quay máy điện
thoại- A lô! Tổng đài đấy hả? Nối giúp máy cho tôi đến H03 xe tăng nhé! Anh
Ngọc này! Có lẽ ta phải tổ chức ngay một cuộc họp rút kinh nghiệm chứ cứ để
tình trạng này thì gay to. A lô! Anh Đỗ đấy phải không? Anh đã nắm được diễn
biến cụ thể trận Phượng Hoàng hôm nay chưa? Chưa à? Tại sao? Thế cơ quan của
anh cử đi làm đại diện ở sở chỉ huy bộ binh cũng chưa báo cáo gì về à? Thôi
được rồi! Ngay trong đêm nay các anh phải nắm lại tình hình rồi báo cáo cụ thể
cho tôi. Tại sao à? Các anh có biết đài Sài Gòn nó đang “biểu dương” lính của
anh hay không? Đơn vị nào à? Cái đơn vị đánh Phượng Hoàng ấy! Đại đội trưởng là
cậu Nhã ấy? Không thiếu một người nào cả, có đủ họ tên, cấp bậc, chức vụ, quê
quán đấy! Kiểm tra ngay đi, ngày mai báo cáo tôi!- Ông bực bội dằn mạnh cái ống
nghe xuống.
Quay về hầm, ngả mình xuống chiếc võng ông Đào trừng
trừng nhìn lên trần hầm. Đau quá! Đã đành, chiến tranh là phải có mất mát, hy
sinh. Nhưng mới chỉ thử lửa sơ sơ mấy trận mà hai trung đoàn xe tăng, quả đấm
thép của mặt trận, niềm tin của Bộ Tổng tư lệnh, của các binh chủng bạn lại tan
tác đến thế này sao? Tại ai? Tại cái gì? Trách nhiệm của ông đến đâu? Trong đầu
ông lại thoáng hiện câu thơ “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” của Tào Tùng.
Không! Dứt khoát không phải như vậy! Cuộc chiến đấu mà ông và bao đồng đội của
mình đang tiến hành không nhằm để tôn vinh một cá nhân nào cả. Đó là cuộc chiến
đấu giải phóng đất nước, thống nhất non sông. Nhưng dù sao cũng thật chua xót.
Phải có biện pháp ngay để cải thiện tình trạng này. Vùng dậy khỏi võng, ông vặn
to ngọn đèn dầu rồi với tay lấy cuốn sổ. Những cái gạch đầu dòng bằng thứ chữ
nhỏ ly ty nhưng cứng cáp mỗi lúc một dày thêm trên trang giấy.
***
Ngay từ sáng sớm chính ủy Ngọc và phó tư lệnh Đào đã
bị tư lệnh mặt trận gọi lên. Trái với vẻ trầm tĩnh thường ngày, hôm nay vừa
thấy hai cán bộ xe tăng xuất hiện ông đã to tiếng:
- Các anh đã biết chuyện gì xảy ra hôm qua chưa? Đánh
đấm thế nào mà để hy sinh cả một đại đội? Lại còn để cho nó nắm được danh sách
đem bêu diếu cho toàn thế giới biết thế này?
Hai anh em nhìn nhau rồi cùng cụp mắt xuống. Phó tư
lệnh Đào thì chỉ muốn có cái lỗ nẻ bên cạnh để chui ngay xuống đó. Nỗi hổ thẹn
dâng lên đến cổ làm cho ông nghẹn lời, mãi sau mới ấp úng:
- Báo cáo tư lệnh! Theo báo cáo của anh em dưới đơn vị
thì trong trận này chúng tôi bị mất 4 xe, 3 xe đã về đến vị trí tập kết nên
không có chuyện hy sinh cả đại đội được. Tuy nhiên chắc là có điều gì uẩn khúc
ở đây, chúng tôi sẽ kiểm tra lại và báo cáo với tư lệnh sau.
Tư lệnh mặt trận vẫn chưa hạ được cơn hỏa:
- Uẩn khúc gì tôi không biết nhưng để lọt tài liệu về
tổ chức vào tay địch thì không thể tha thứ được. Lại còn bên cánh bắc nữa, các
anh mất bao nhiêu xe?- Ông đay đả- Đấy! Hôm mồng Hai mà cái tiểu đoàn xe tăng
lội nước các anh đến đúng giờ thì đâu có đến cơ sự này.
Cả hai cán bộ xe tăng đứng như chôn chân, mặt vẫn cúi
gằm xuống chưa biết trả lời thế nào thì xen lẫn tiếng vè vè của chiếc L19 một
giọng nói lúc trầm, lúc bổng từ trên trời vọng xuống: “Tôi, Nguyễn Đức Lộ, pháo thủ xe tăng của đại đội 1, tiểu đoàn 397,
trung đoàn xe tăng 203 xin có đôi lời gửi đến anh em cán binh Bắc Việt của mặt
trận Quảng Trị. Ngày hôm qua, trong trận tiến công cứ điểm Phượng Hoàng đơn vị
của tôi đã bị tiêu diệt gần hết. Bản thân tôi cũng bị thương nhưng nhờ sự cứu
giúp của các binh sĩ lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 nên tôi đã may mắn sống
sót. Được hưởng sự khoan hồng của quân lực Việt Nam cộng hòa tôi đã quyết định đứng
về phía chính nghĩa quốc gia. Tôi kêu gọi các cán binh Bắc Việt hãy buông súng
đầu hàng, đảm bảo các bạn sẽ được đối xử tử tế và sẽ được trọng dụng”.
Chiếc L19 đã bay sang phía khác nhưng cái điệp khúc ấy
vẫn cứ văng vẳng. Tư lệnh mặt trận gầm lên:
- Lại còn cái gì nữa đây? Các anh giáo dục lính tráng
thế nào mà đến nông nỗi này? Quả đấm thép bây giờ lại tự đấm vào mặt mình hả?
Thôi! Còn đứng đấy làm gì? Về đi! Về mà xem lại mình đi! Trận tới mà các anh
làm ăn không ra gì thì tôi xin trả lại bộ, không có xe tăng thiết giáp gì nữa
cho nặng nợ.
Hai anh em lủi thủi rời khỏi căn hầm sở chỉ huy. Hình
như câu chuyện “một chiến đoàn thiết xa Việt cộng bị tiêu diệt cùng với danh
sách hơn ba mươi chiến sĩ xe tăng tử thương” đã được cả cơ quan bộ tư lệnh biết
nay lại được màn “chiêu hồi” của một pháo thủ xe tăng phụ họa đã làm mọi con
mắt nhìn vào họ khác hẳn. Không biết mọi người nghĩ gì chỉ biết rằng họ đi đến
đâu cũng thấy những tiếng xì xào, những cái chỉ trỏ và những ánh mắt đầy vẻ tò
mò xen lẫn thương hại, thậm chí khinh miệt. Về đến hầm phó tư lệnh Đào ngồi
phịch xuống võng chán nản:
- Rát mặt quá anh Ngọc ạ! Chưa bao giờ tôi thấy nhục
nhã như hôm nay.
Chính ủy Ngọc cũng ủ rũ cúi đầu:
- Thật không thể ngờ được mọi chuyện lại tồi tệ đến
vậy.
Đúng lúc đó thì trợ lý Bắc xuất hiện. Trái với vẻ xông
xáo, hồ hởi mọi ngày mà thay vào đó là một bộ mặt ỉu xìu. Phó tư lệnh Đào mệt
mỏi:
- Thế nào? H03 đã báo cáo lên chưa?
- Báo cáo rồi, thủ trưởng ạ!- Bắc vẫn uể oải.
- Cậu nói ngay đi xem nào!- Chính ủy Ngọc nôn nóng.
Bắc chậm rãi:
- Báo cáo các thủ trưởng! Về thiệt hại thực tế của 397
là có ba xe bị bắn cháy, một xe địch bắt sống kéo về Ái Tử để tuyên truyền. Anh
em mình cũng chỉ hy sinh hai đồng chí, một bị mất tích chắc là thằng Lộ pháo
thủ vừa nói trên máy bay ấy. Tuy nhiên tai hại là cái xe bị địch bắt kéo về lại
đúng là xe chính trị viên, trong đó có danh sách trích ngang đơn vị và một số
tài liệu khác.
Phó tư lệnh Đào đập hai tay xuống đầu gối:
- Trời ơi là trời!
Điềm đạm như chính ủy Ngọc mà cũng phải thốt lên:
- Ấu trĩ đến thế là cùng? Cậu nào chính trị viên đại
đội này ấy nhỉ?
- Hình như là Trần Xuân Hàn thủ trưởng ạ!- Bắc nhăn
trán cố nhớ lại.
Phó tư lệnh Đào cau có:
- Cậu nào thì chuyến này cũng phải kỷ luật thật nặng
anh ạ! Tôi quyết định thế này: ngày mai ta sẽ tổ chức rút kinh nghiệm đối với
hai trung đoàn. Phải triệu tập cả cán bộ các tiểu đoàn và mấy đại đội trực tiếp
chiến đấu hôm mồng Chín vừa qua lên để xem các anh ấy giải trình xem đánh đấm
như thế nào mà để đến nông nỗi ấy. Anh thấy có được không?
- Tôi đồng ý!
- Vậy cậu Bắc điện xuống cho hai trung đoàn đi!- Phó
tư lệnh Đào hất cằm về phía Bắc.
Suốt ngày hôm ấy chính ủy Ngọc và phó tư lệnh Đào ru
rú ngồi trong hầm. Họ cũng chẳng thiết ăn uống gì, bữa cơm trưa do công vụ đem
về vẫn để nguội ngắt đấy. Ngay cả bức điện từ Bộ tư lệnh gửi vào báo tin tiểu
đoàn 171 đã đến B2 và ngay lập tức tham gia chiến dịch, góp phần tiêu diệt chi
khu Lộc Ninh cũng không làm cho họ tươi tỉnh hơn chút nào. Chính ủy Ngọc thì
nằm dài trên võng vặn hết đài này đến đài kia. Còn phó tư lệnh Đào thì ngồi bó
gối nhìn chăm chăm ra khoảng trống trước cửa hầm. Một cảm giác tủi hổ, ê chề
chưa bao giờ có đang tràn ngập trong lòng ông. Cái đầu thì vẫn cứ ong ong như
búa bổ, con mắt bị thương lúc lúc lại giật lên. Cố tĩnh trí để suy nghĩ nhưng
cái đầu vốn luôn tỉnh táo của ông vẫn cứ rối lên như mớ bòng bong. Ông không
thể lý giải được một cách rành rẽ đâu là những nguyên nhân đã dẫn đến tình
trạng thảm hại của cái binh chủng mà ông hằng yêu quý, chăm chút và kỳ vọng
suốt hàng chục năm qua.
Nhưng nào đâu đã hết. Cuối buổi chiều, khi ông Đào
đang ngồi bên cuốn sổ tay ly ty những chữ là chữ để chuẩn bị cho cuộc họp ngày
hôm sau thì trợ lý Bắc xuất hiện, anh nói không ra hơi:
- Báo… cáo thủ… trưởng!
Linh cảm thấy có chuyện chẳng lành ông Đào ngẩng phắt
đầu lên:
- Gì thế đồng chí?
Bắc lắp bắp lựa lời:
- Dạ! Bên cánh Tây vừa báo cáo về… đêm qua… xe tăng
với bộ binh đánh nhầm nhau thủ trưởng ạ!
Như có một mũi dao thọc từ con mắt trái lên đỉnh đầu,
phó tư lệnh Đào cố nén cơn đau gắng gượng hỏi:
- Lại còn thế nữa cơ à? Cậu nói cụ thể xem nào!
Bắc đã trấn tĩnh lại, anh rành giọt:
- Báo cáo thủ trưởng! Tin điện về chưa thật cụ thể,
chỉ biết rằng đêm qua một đơn vị bộ binh và một đơn vị xe tăng của ta đánh nhầm
nhau, hai xe tăng bị bắn cháy, bộ binh cũng bị thương vong một số…
Phó tư lệnh Đào rũ xuống như con gà bị cắt tiết, một
tay ông ôm lấy đầu, tay kia xua xua:
- Đồng chí điện xuống H03 nắm cụ thể tình hình rồi báo
cáo tôi!
Nỗi đau của phó tư lệnh Đào lên đến đỉnh điểm khi trời
gần tối chính ủy Ngọc sang hầm ông với tờ truyền đơn trong tay. Vừa liếc nhìn
qua hình ảnh chiếc xe tăng mang số hiệu 385 chở đầy đám lính ngụy đang hươ
chân, huơ tay đứng giữa căn cứ Ái Tử ông gần như xỉu đi. Ngay đêm đó phó tư
lệnh Đào lên cơn sốt rét. Cả một đống chăn đắp lên người mà ông cứ rên hừ hừ
suốt đêm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét