Thứ Sáu, 22 tháng 9, 2017

BÚT KÝ LÍNH TĂNG- HÀNH TRÌNH ĐẾN DINH ĐỘC LẬP- 40


Như muốn cướp lại thời gian đã mất, qua được sông là những con chiến mã lại phóng hết tốc lực trên đường. Con đường quốc lộ Một làm theo công nghệ Mỹ tuy không bị những băng xích xe tăng cày nát nhưng cũng hằn lên hai vệt trắng nhờ, nhưng cuộc hành quân thần tốc lại bị khựng lại cũng vì một cây cầu, cầu Mộ Đức.
Cũng giống như cầu Câu Lâu, cầu Mộ Đức bị đánh sập một nhịp và cũng được bắc lại bằng cầu Mỹ. Đây là loại cầu dã chiến được ghép lại với nhau bởi các khung thép và chỉ có trọng tải 8 tấn nên không đủ tải cho xe tăng qua. Công binh quân đoàn đang tập trung làm ngầm ở phía hạ lưu và xe tăng lại phải nằm chờ. Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ cho các đại đội dạt vào bên đường lợi dụng bóng cây tránh nắng.
Mộ Đức là một vùng quê có truyền thống cách mạng từ lâu đời, nghe tin hôm nay có một tiểu đoàn xe tăng hành quân qua nghỉ lại Hội mẹ chiến sĩ tổ chức đến úy lạo và khao quân. Tiểu đoàn thông báo trưa nay các đơn vị không phải nấu cơm mà sẽ ăn cơm tập trung từng đại đội.
Gần trưa, ba chiếc xe lam chở cơm và thức ăn đến vị trí tập trung của ba đại đội. Đến với đại đội Bốn là hai bà má đã ngoài sáu mươi, dáng người nhỏ thó nhưng còn khá khoẻ mạnh. Dưới cái nắng trưa gay gắt hai má xăng xái chia cơm, thức ăn vào những bộ xoong chậu quân nhu do các xe mang tới. Thức ăn các má chuẩn bị để khao quân hôm nay gồm cá biển kho, canh chua cá lóc và rất nhiều rau sống. Cái thứ rau sống của người Quảng Ngãi cũng thật lạ. Đó là một hỗn hợp của rất nhiều thứ: rau muống chẻ, rau má, rau diếp cá, ruột cây chuối thái mỏng và đặc biệt nhất là có cả những lát mỏng mít xanh… Sau gần một tháng quanh đi quẩn lại với lương khô, thịt hộp nay trông thấy canh chua và rau sống tên nào tên ấy cứ nuốt nước bọt ừng ực, chỉ đợi chính trị viên cảm ơn các má vài câu và phát lệnh bắt đầu là lao vào ăn như “rồng cuốn”. Tích cực nhất phải kể đến Sáu Bùi, cậu ta phồng mang trợn mắt lèn từng cuộn rau to đùng vào cái miệng rộng hoác, ai hỏi có ngon không cũng chẳng trả lời được, đầu thì gật mà miệng vẫn nhai rau ráu.
Nhìn cánh lính trẻ ăn ào ào như người đói khát lâu ngày, hai má bỗng bật khóc hu hu. Lúc đầu chỉ là những tiếng nấc nhỏ nhưng sau chắc không giữ được các má khóc như mưa như gió. Đang mở hết tốc độ ăn cả lũ bỗng dừng cấp tốc tròn mắt nhìn nhau. Thận và Toàn vội chạy lại bên hai má, cả hai không biết vì lẽ gì mà các má khóc dữ như vậy nên hết sức lúng túng. Toàn ấp úng:
- Má…má… làm sao vậy? Chúng con có gì không phải thì bảo chúng con!
Hai má vẫn khóc nhưng không còn khóc to nữa, một má cất cái giọng Quảng Ngãi vốn đã khó nghe nay lại càng khó nghe trong cơn khóc:
- Mồ tổ tụi bay! Một tiểu đoàn mà chỉ có từng này người thôi sao?
- Vâng! Chúng con chỉ có bấy nhiêu thôi!- Toàn vội trả lời.
Hai má lại oà lên khóc. Xúm lại bên hai má bây giờ không chỉ có Toàn và Thận mà cả hàng chục gương mặt trẻ, đứa nào đứa nấy cứ ngỡ mình mắc lỗi gì. Bỗng hai má ngừng khóc và bật cười, cả lũ lại càng ngạc nhiên. Nhìn những bộ mặt ngây hết cả ra hai má vừa cười vừa giải thích:
- Nghe nói bọn bay có cả một tiểu đoàn, các má tưởng bọn bay đông lắm. Hội các má chỉ có ít tiền nên phải mua cá, mua rau để đãi tụi bay. Biết tụi bay chỉ có bấy nhiêu người thì các má đã thịt một con heo để chúng bay ăn chứ tội gì để tụi bay phải ăn khổ thế này!
- Trời ơi! Thế mà má làm chúng con hết hồn!- Toàn cười hết cỡ- Chúng con ăn thế này là ngon lắm rồi, má cứ xem xem, mâm nào cũng gần hết rồi đấy!
- Ngon thiệt không?- Một má nghiêm giọng hỏi.
- Ngon thiệt mà! Chúng con đi như thế này mấy chục ngày rồi, ngày nào cũng lương khô, thịt hộp nên chỉ thèm rau thôi!- Thận chen vào giải thích.
- Thế thì còn nhiều lắm! Tụi bay cứ ăn đi, các má về lấy thêm.
Chiếc xe lam lại chạy thêm một chuyến nữa về lấy rau, mâm nào lại về mâm ấy tiếp tục cuộc chiến đấu còn đang dang dở. Hai má ngồi nhai trầu bỏm bẻm nhìn đám lính trẻ đang nhồm nhòam nhai, vẻ mặt đầy mãn nguyện.

Cơm nước xong xuôi thì bên công binh báo đã làm xong ngầm, lữ phó Tụ quyết định cho một xe xuống đi thử. Chiếc xe đã qua gần hết ngầm thì chết máy, nước vào động cơ đành nằm lại giữa sông. Để nó nằm đấy thì công binh không làm tiếp được, Tụ cho nối cáp vào để kéo xe lên và lệnh cho “xê Mười Một” khẩn trương khắc phục.
Nhìn những đoàn ô tô vẫn nối đuôi nhau qua cầu lữ phó Tụ càng sốt ruột, ông biết chắc chắn rằng cái ngầm này muốn để cho xe tăng qua được còn tốn nhiều công lắm, có nhanh thì cũng hết đêm nay mới xong. Lững thững đến sát đoạn cầu Mỹ bắc tạm ông thấy mỗi chiếc xe ô tô qua cây cầu tạm chỉ hơi võng xuống một tý, các chốt nối của cầu đều bằng những đoạn thép to gần bằng cổ chân nên khá chắc chắn. Một ý nghĩ táo bạo bỗng nẩy ra trong óc ông: “với kết cấu như thế này có thể cho xe tăng qua được!”. Nghĩ là làm, Tụ cho gọi Thận lên:
- Cái 389 vẫn đi cùng đấy phải không?
- Vâng ạ!- Thận trả lời mà vẫn chưa hiểu tại sao.
- Anh gọi nó lên đây cho tôi.
- Để làm gì lữ phó?- Thận vẫn chưa hiểu.
- Thì để nó đi thử cái xem sao!
Thận đã hiểu ra. Cái xe 389 là cái xe bị mảnh bom chém vào nòng pháo, các chuyên gia về vũ khí đều cho rằng nếu xe này mà bắn pháo thì nòng có thể bị gãy ở chỗ đó. Vừa rồi trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng nó lại bị kẹt lại sau xe 382 ở đường 73 nên chưa biết thực hư thế nào. Khi vào đến Đà Nẵng lữ đoàn vẫn quyết định cho đi, đến đâu hay đến đấy. Còn hôm nay chắc ông Tụ muốn thí tốt đây.
Thận chạy về chỗ đại đội nghỉ chân, anh bảo Tráng:
- Cậu cho xe lên đầu cầu gặp lữ phó Tụ!
Lái xe Nghị đang lơ mơ ngủ bị dựng dậy, mắt nhắm mắt mở đánh xe lên đầu cầu. Lữ phó Tụ đã đứng đó đợi, ông gọi Tráng và Nghị lên:
- Bây giờ các cậu trên xe xuống hết, chỉ một mình lái xe ở lại trên xe- Ông quay sang hỏi Nghị- Cậu có biết bơi không?
- Tôi bơi tốt!- Nghị trả lời.
- Vậy thì thế này nhé. Cậu sẽ lái thử cái xe này qua cầu, cứ bình tĩnh, đi chân dầu thật êm, trước khi vào cầu phải căn hướng cho chính xác, đã vào cầu tạm rồi tuyệt đối không chuyển hướng nữa. Nếu không may rơi xuống sông thì cứ bình tĩnh đợi cho nước tràn đầy vào xe thì bơi ra. Rõ chưa?- Ông nhìn như xoáy vào mắt Nghị.
- Rõ rồi ạ!- Nghị gật đầu ra ý hiểu.
- Nào, bắt đầu nhé!
Tráng gọi Trung, Thành xuống rồi đi bộ vượt sang bên kia cầu. Nghị vào xe nổ máy. Tụ cho người chặn xe hai đầu cầu lại rồi trực tiếp chỉ huy xe. Nghị cũng thấy hơi căng thẳng nhưng cậu tặc lưỡi: “cùng lắm thì rơi xuống sông”. Nghĩ vậy rồi cậu thấy vững dạ hơn và nổ máy đưa xe vào cầu theo tín hiệu của lữ phó.
Quân lính hai tiểu đoàn, rồi đám công binh và người từ những chiếc xe bị chặn hai đầu cầu cùng dán mắt vào từng động tĩnh của xe 389. Nó đã vào phần cầu chưa bị sập…, rồi nó từ từ bò lên nhịp cầu tạm…. Những khung sắt nghiến rào rạo và oằn xuống. Nghị vẫn giữ chân dầu thật êm. Chiếc xe đã bám được băng xích vào mố cầu bên này rồi qua hẳn, nhịp cầu tạm lại vồng lên như cũ. Tiếng vỗ tay lộp độp nổi lên.
Lữ phó Tụ quay lại nhắc hai tiểu đoàn trưởng:
- Về nhắc anh em lái xe: đi qua cầu phải thật nhẹ nhàng, không được chuyển hướng. Giao các anh đứng đây điều hành cho từng xe qua một, rõ chưa?
- Rõ!- Hai tiểu đoàn trưởng mặt tươi hơn hớn trả lời.
- Từ nay gặp cầu Mỹ cứ thế mà qua nhé!- Tụ cười hóm hỉnh, tất cả những người có mặt cùng cười theo.
Chỉ hai mươi phút sau hai tiểu đoàn xe tăng đã qua hết cầu.

Đường tốt, cầu sập đã có giải pháp nên tốc độ hành quân được đẩy lên rất cao. Thực ra hành quân như thế này chỉ cánh lái xe là vất vả, còn các thành phần khác đều tranh thủ nghỉ ngơi được, kể cả trưởng xe.
Con đường thiên lý cứ trải dài trước mắt, hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày. Cứ vài chục cây lại nghỉ một chặng để tiếp nhiên liệu, ăn uống, nghỉ ngơi, kiểm tra kỹ thuật… Mấy tên lái xe có dịp gặp nhau lại đùa: “không nhớ hôm qua, hôm kia mình ngủ vào lúc nào nhỉ?”.
Đại đội Bốn là đơn vị đi cuối trong đội hình hành quân của lữ đoàn, trong đại đội thì xe 380 lại đi cuối cùng thành ra con “tuấn mã sứt môi” trở thành xe đi “chặn hậu”. Ngay từ khi xuất phát từ Đà Nẵng Trang đã bảo Phượng và Luông:
- Các anh cứ yên tâm mà ngủ đi! Đường sá thế này sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra đâu!
Quả có thế thật, với trình độ của đội ngũ lái xe trong đại đội thì điều kiện đường sá thế này chả có gì đáng lo cả, song cái mà đại đội phó Phượng lo nhất là tình trạng kỹ thuật của xe cộ. Sáu chiếc xe của đại đội anh là sáu chiếc T59 đã vào chiến trường từ năm 71, lại phải hành quân vượt Trường Sơn vào Tây Huế trong điều kiện độc lập. Những năm hòa bình sau hiệp định Paris cũng không được củng cố một cách cơ bản nên khó có thể tránh khỏi các sự cố trên chặng đường hành quân hàng nghìn cây số lần này. Dụng ý của anh lần này bố trí xe 380 chạy cuối đội hình là vì anh tin vào tình trạng kỹ thuật của nó, lại tin vào khả năng của Trang có thể giúp anh nhanh chóng khắc phục những hỏng hóc thông thường của các xe trong đại đội. Mấy năm làm trợ lý kỹ thuật tiểu đoàn và hơn hai năm làm đại đội phó kỹ thuật đại đội Bốn này anh đã hiểu tính nết, khả năng của từng xe cũng như của từng lái xe trong đại đội. Suốt từ hôm bắt đầu đi từ A Lưới, nhìn cánh lái xe lúc nào cũng tất bật, vất vưởng, mặt mũi hốc hác, hai mắt thâm quầng anh thương lắm nhưng chẳng biết làm thế nào, chỉ thỉnh thoảng nhảy vào lái đỡ chúng nó một đoạn.
Cái lo của Phượng không phải vô căn cứ, mới vào đến Bình Định xe 381 đã giở chứng đầu tiên, nó bị vỡ ống dầu. May mà Hùng kịp thời phát hiện ra chứ không chỉ chạy thêm vài phút nữa là “đi” luôn cái động cơ, mà đang hành quân thế này bị cháy động cơ chỉ có bỏ lại đấy cho bộ phận “thu dung” của “xê 11”. Xe 380 phải dừng lại để cùng khắc phục.
Đoạn đường này chạy ngay gần biển, hai bên đường toàn dừa. Xe vừa mới dừng Duyệt đã tranh thủ dân vận được mấy quả dừa tuy không to nhưng ngọt lịm. Từ xe 381 về Trang thấy Thọ đang nói chuyện rất thân mật với một trung niên có nước da đen bóng, cậu chui vào buồng lái định tranh thủ ngủ một giấc thì Thọ chui vào theo và thì thầm:
- Nó gạ đổi dầu lấy cá, có đổi không?
Trang hơi ngại vì dù sao nhiên liệu cũng rất quan trọng nhưng nhớ đến bữa cá các má đãi ở Mộ Đức lại thấy thèm, cậu gật:
- Cứ đổi đi! Dầu thì thiếu đếch gì, lấy ngay ở tổ ngoài ấy.
- Mày cứ ngủ đi để tao lấy cho- Thọ lục hòm dụng cụ lấy cờ lê tháo dầu.
- Nhưng nhớ kin kín một tý, đừng để ai trông thấy- Trang dặn với theo.
 Lúc sửa xong xe 381, vừa về xe Phượng đã phát hiện ra ngay:
- Cá mú ở đâu mà tanh thế?
Thọ tỉnh bơ:
- Em với Duyệt vừa dân vận được một ít- Thọ chỉ cái thùng 10 lít gần đầy cá nục- Dân ở đây quý bộ đội lắm.
- Thế à! Trưa nay nhớ chia cho các xe kia ăn với! Còn bây giờ phải tăng tốc để đuổi đội hình Trang nhé! 
Cuộc hành quân từ đấy diễn ra khá suôn sẻ, những sự cố kỹ thuật xảy ra cũng tương đối đơn giản và được khắc phục kịp thời. Đã qua hết đất Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa mà chưa có xe nào bị rớt lại. Cả một miền duyên hải đã trôi qua dưới hai băng xích, biết bao địa danh cảnh đẹp mê hồn như Đại Lãnh, Cam Ranh, Nha Trang, Mũi Né… mà nào có được dừng lại để thưởng thức, chỉ có “sáng kiến” đổi dầu lấy cá được áp dụng luôn nên bữa nào cũng có cá ăn.
Đêm qua Phan Rang trời sáng trăng vằng vặc, những ngọn Tháp Chàm trầm mặc và đầy huyền bí dưới trăng cũng không che lấp được những dấu tích của một trận đánh vô cùng ác liệt đã diễn ra trước đó mấy ngày. Nhiều hố bom trúng giữa mặt đường vẫn chưa kịp lấp. Đó đây rải rác xác lính địch chết chưa được chôn cất đã bắt đầu bốc mùi... Nghe nói tiểu đoàn Bốn, tiểu đoàn Năm đã đánh nhau ở đây dữ dội lắm, có mấy xe bị cháy và Cát “thợ săn” đã hy sinh, cậu ấy mới chuyển sang đại đội Ba hồi đầu năm. Nghe tin Cát chết ai cũng thương, cái thằng vừa chịu khó lại hiền như đất, ai trêu chọc gì cũng chỉ nhe răng cười, cứ vài hôm lại lầm lũi một mình vác súng vào rừng đi săn, thú rừng cũng bắn mà lợn nhà cũng bắn…

Nhìn quang cảnh khốc liệt của chiến trường ai cũng hiểu sẽ chẳng dễ dàng gì trong cuộc chiến đấu sắp tới, kẻ địch đã cùng đường và ai biết được chúng sẽ giở những ngón đòn hiểm độc nào nữa đây để đối phó với họ. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét