Thứ Hai, 11 tháng 9, 2017

BÚT KÝ LÍNH TĂNG- HÀNH TRÌNH ĐẾN DINH ĐỘC LẬP- 32


Đường 73 là con đường nối giữa đường 14 B với đường 14 cũ, hai con đường sẽ gặp nhau tại Nam Đông, nó vừa mới được ta tranh thủ mở sau hiệp định Paris nên còn rất hẹp. Vắt ngang dãy A Roàng từ thung lũng A Lưới xuống bình nguyên Nam Huế nên cũng tương đối hiểm trở. Chỉ có điều sướng hơn năm 72 là không có máy bay, chạy được suốt ngày, còn đêm đến thì cứ bật đèn pha mà chạy. Tự tin vào tay lái của mình Trang bảo trưởng xe Luông:
- Anh mà buồn ngủ thì cứ ngủ đi! Kệ em!
Từ A Lưới vào đến hậu cứ cũ ở cây số 108 đường bằng phẳng, xe toàn chạy số ba số bốn, nhưng bắt đầu vào đường 73 chỉ còn chạy số một, số hai; con đường cứ dốc ngược lên, những cái cua gập như tay áo. Đi thứ ba trong đội hình nhiều lúc Trang phát hoảng bởi nhìn thấy dưới băng xích xe 386 đằng trước đất đá cứ rơi lả tả xuống vực. Mấy cái chắn bùn được hàn vá tương đối chắc chắn nay lại va vào ta luy rách tơi tả. Đã vào mùa khô, đất đá tơi vụn ra dưới hai băng xích thi nhau thốc vào mặt mũi cánh lái xe, mỗi lần nghỉ ngắn nhìn thấy nhau lại bò ra cười vì thằng nào thằng ấy cứ như hề.
Chạy cật lực gần suốt đêm thì Thận cho đại đội dẹp vào một bên đường dừng nghỉ. Vừa hạ ghế lái xuống Trang đã ngủ luôn không kịp uống ca sữa Thọ pha. Cậu ta lẩm bẩm: “đúng là ăn pháo thủ, ngủ lái xe, sáng mai pha cho nó ca khác” rồi làm một hơi hết ca sữa.
Sau bữa cơm cả đại đội lại tiếp tục lên đường, lại những con dốc ngất trời, những khúc cua chóng mặt, lại va vào ta luy dương, đất đá lại lả tả lăn dưới những băng xích. Đến chặng nghỉ thứ nhất đợi mãi không thấy xe 382 và 389 tới nơi, Thận vội chui vào xe mở đài thì nhận được báo cáo của đại đội phó Phượng:
- 82 gọi 86! Xe 382 bị hỏng giảm tốc sườn, do đường hẹp xe 389 cũng bị kẹt lại. Xin chỉ thị!
Chẳng mật ngữ gì nữa Thận gắt:
- Thế liệu có khắc phục được không? Mất bao nhiêu lâu?
- Hiện tại không có khí tài thay thế ở đây, phải quay về A Lưới lấy nên có lẽ hơi lâu- Tiếng Phượng vọng về từ xa tắp.
- Thôi! Anh cứ ở lại với anh em, bao giờ xong thì đuổi theo đội hình. Có lẽ bọn tôi phải đi trước đây.
Ra khỏi xe anh bảo Chỉnh đi gọi chính trị viên. Hai người chụm đầu bàn bạc một lúc, cuối cùng Thận bảo:
- Cứ phải đi cho kịp đã, chúng nó đuổi kịp thì tốt, còn nếu không có xe nào đánh xe ấy.
Thế là đại đội còn có 5 xe, trung đội Hai bây giờ còn mỗi xe trung đội trưởng.
Chạy đến 21 giờ ngày hôm sau toàn đại đội đã có mặt tại đỉnh Động Truồi trước thời gian quy định, hai xe bị kẹt lại vẫn chưa lên kịp. Người của sư 324 đã có mặt tại đó để đón và hiệp đồng đến 9 giờ sáng hôm sau có mặt tại Cầu Răng Cưa để đi trinh sát thực địa chuẩn bị tiến công cứ điểm Núi Bông, Núi Nghệ. Hỏi cầu Răng Cưa ở chỗ nào thì chỉ được trả lời vắn tắt: “cứ đi thẳng đường này, thấy cái cầu nào mà người ta xây các ụ xi măng hai bên thì đó là cầu Răng Cưa”.
Thế là chẳng còn xa xôi gì nữa. Ngay dưới chân con dốc này thôi là địch, là đồng bằng, là Huế thân yêu, nơi đã từng là mục tiêu của chính đại đội này ba năm về trước. Đúng là “con đường thẳng chưa chắc đã là đường ngắn nhất”. Từ Cẩm Ly, Quảng Bình vào Huế theo quốc lộ Một chỉ gần hai trăm cây số thôi mà đại đội Bốn này đã đi hết ba năm với gần nghìn cây số. Những tháng ngày nằm ở đường 12 tưởng chỉ đi “rốn” một tý là đến Huế mà nào có được. Rồi hai năm ăn chực, nằm chờ ở A Lưới đợi đến lúc này đây.  

Mặc dù đã lâu không hành quân đường dài ai cũng mệt nhưng những cảm xúc xốn xang trào đến làm mọi người trằn trọc. Nói gì thì nói dù đã trở lại với đội hình lữ đoàn nhưng những người lính tiểu đoàn Bốn xe tăng nói chung và đại đội Bốn này nói riêng ai cũng coi mình là một người lính của Thừa Thiên Huế. Cái mong ước được về giải phóng Huế như một ngọn lửa âm ỉ cháy trong lòng họ đã mấy năm và chỉ nay mai sẽ bùng lên. Mấy thằng tếu táo vẫn kháo nhau: “sau này thế nào cũng phải kiếm một cô vợ Huế”. “Rắn” như đại đội trưởng Thận mà còn dặn vợ: “nếu đẻ con trai thì đặt tên là Thành, còn nếu đẻ con gái thì đặt tên là Huế” cơ mà… Vì thế thật dễ hiểu khi đêm nay mọi người cùng khó ngủ.
Sáng hôm sau Thận gọi Tráng, Tập và Trang cùng anh đi trinh sát thực địa. Bốn anh em mỗi người một khẩu AK, một bi đông nước và hai bánh lương khô kéo nhau đến chỗ hẹn. Đi một thôi chừng ba mươi phút thấy một cây cầu đúng như lời dặn của anh chàng trinh sát bộ binh, cũng cầu bằng bê tông, cũng hai dãy ụ xi măng hai bên làm giới hạn, Tráng bảo:
- Ừ! Trông xa đúng như cái lưỡi cưa nằm ngửa thật! Chắc chỗ này rồi!
Trông trước, ngó sau một tý Thận bảo:
- Chắc đúng rồi đấy!- Anh giơ tay xem đồng hồ- Mới có chín giờ kém mười, còn sớm chán. Ta cứ ngồi đây đợi vậy!
Đợi đến mười hai giờ vẫn chẳng thấy cánh bộ binh đến. Thận quyết định:
- Ta cứ đi! Trên đường nếu gặp họ thì tốt, còn nếu không thì chủ yếu trinh sát đường cơ động thôi, không vào núi Bông nữa.
Đi được chừng bảy, tám trăm mét, vừa qua khỏi một khúc cua Trang đi đằng trước mấy bước đã reo lên:
- Đây cũng có cầu  Răng Cưa các anh ạ!
Thật vậy, cái cầu ở đây cũng y hệt cái cầu mà họ vừa ngồi đợi, Thận lẩm bẩm:
- Kiểu này chắc còn nhiều cầu Răng Cưa nữa chứ chẳng phải chỉ hai cái đâu.
Đi dấn thêm gần một cây nữa lại có một cây cầu y hệt, chỉ khác là ở đó có ba bốn chàng bộ đội đang ngồi tán róc một cách uể oải. Vừa nhìn thấy thầy trò Thận đến một anh dáng chừng là chỉ huy đã hỏi ngay:
-  Các anh bên xe tăng đi trinh sát phải không?
-  Đúng đấy! Tôi là Thận, đại đội trưởng- Thận giơ tay ra bắt.
- Tôi là Sơn, trung đội trưởng- Anh trả lời và đưa tay bắt tay Thận- Nhưng sao các anh đến muộn vậy, hẹn chín giờ cơ mà!- Sơn có vẻ trách móc.
- Ai bảo các bố xác định địa điểm không rõ ràng, bảo nhau đến đợi ở cầu Răng Cưa nhưng bố cứ thử đếm xem ở con đường này có bao nhiêu cái cầu như cầu Răng Cưa này- Thận trả lời.
Anh chỉ huy trinh sát có vẻ ngượng:
- Thế “nó” không chỉ cho anh trên bản đồ à?
- Không! Chỉ thấy nói đúng một câu rồi đi luôn.
- Thôi được! Giờ ta đi vẫn còn kịp.
Bốn anh em xe tăng và bốn chiến sĩ trinh sát nhập với nhau thành một đoàn, họ vừa đi vừa trao đổi về nội dung và phương pháp tiến hành trinh sát. Sự trục trặc về hiệp đồng đã lấy mất của họ một khoảng thời gian hết sức quý báu. Nếu không có gì thay đổi sáng sớm mai sẽ nổ súng tiến công núi Bông mà giờ họ còn chưa đến vị trí trinh sát, vì thế Sơn luôn giục mọi người rảo bước.
Đã đến đỉnh Động Truồi, từ đây trở đi chủ yếu là xuống dốc. Sơn bảo mọi người dừng lại giới thiệu khái quát địa hình toàn bộ khu vực, cuối cùng chốt lại:
- Vấn đề mà các anh cần lưu ý nhất khi đi từ trên này xuống là giữ bí mật. Các anh đều biết ở trên cao này chỉ cần một que diêm thì dưới chân dốc nhìn đã rất rõ. Vì thế nếu các anh bật đèn thì địch sẽ phát hiện ra ngay và sẽ gọi pháo từ Mỏ Tàu, Phú Bài ngăn chặn quyết liệt. Vì vậy tôi đề nghị khi xuống dốc tuyệt đối không được bật đèn- Tập và Trang nhìn nhau, lè lưỡi. Sơn vẫn tiếp- Ngay cả bây giờ chúng ta cũng nên nép vào một bên mà đi, không loại trừ địch có những phương tiện trinh sát hiện đại có thể nhìn thấy chúng ta đang đi ở trên này.
Thận nhắc nhở:
- Tập với Trang chú ý nắm tình hình đường sá nhé. Đêm nay là đi “mò” đấy!
- Vâng ạ!- Tập trả lời.
Con đường đã lâu không có phương tiện cơ giới qua lại nên lau lách um tùm chờm hết cả vào lòng đường, cả tám người nép vào bóng đám lau lách vô tổ chức đó để đi. Càng xuống cuối dốc đường càng rộng và thoáng đãng hơn, từ đây đã nhìn thấy núi Bông đứng sừng sững như một con voi lớn nằm phủ phục ngay bên đường. Rõ ràng đây là một cứ điểm có ý nghĩ cực kỳ quan trọng bởi nó kiểm soát cả một vùng rộng lớn và toàn bộ sự đi lại trên đường 14. Theo Sơn cho biết thì bộ binh đã đánh núi Bông từ hôm 20 nhưng không ăn thua gì, nó vẫn “rắn” lắm.
Xuống gần hết dốc thì đã ba giờ chiều, Thận bảo:
- Nội dung trinh sát đường cơ động chỉ đến đây thôi. Bây giờ hai cậu quay về báo cho anh Toàn chỉ huy đại đội cơ động ngay, trước 5 giờ sáng mai phải xuống hết dốc này và sẵn sàng bước vào chiến đấu. Tớ sẽ đón đại đội tại chân dốc. Nhớ lời anh Sơn dặn đấy nhé, tuyệt đối không dùng đèn từ khi bắt đầu xuống dốc.
- Rõ!- Cả Tập và Trang cùng trả lời.
Mấy anh em bắt tay nhau rồi chia tay. Tập và Trang vừa đi vừa chạy, vừa ăn lương khô mà chập tối một lúc lâu mới về đến chỗ đại đội trú quân. Hai anh em vào báo cáo chính trị viên Toàn và đề nghị cho xuất phát ngay mới kịp.
Chính trị viên Toàn tập trung đại đội phổ biến nhiệm vụ. Khi nghe đến đoạn phải đi “mò” cả hàng quân ồ lên. Đúng là trong điều kiện đường sá đèo dốc như thế này mà không cho sử dụng đèn để lái thì lạ thật, nhưng khi nghe Tập giải thích thì mọi người nhất trí ngay, thà đi chậm chứ tội gì mà gọi pháo bắn vào đầu mình. Trang cũng xin có ý kiến:
 - Tôi để ý thấy suốt dọc đường hai bên um tùm lau lách, vì vậy khi lái đêm chúng ta có thể nhìn lên trời để căn đường cũng được.
Lại những tiếng “ồ”, tiếng ai đó: “lái xe sao lại nhìn lên trời mà lái được?”. Nhưng rồi sau khi trao đổi nhỏ với nhau cánh lái xe cũng nhất trí sẽ chú ý để vận dụng. Cuối cùng Toàn kết luận:
- Đội hình hành quân sẽ như sau: tôi đi đầu, sau đó là xe 386, 381, 387 và cuối cùng là xe 380 của đồng chí Trang. Do trời tối lại đi không đèn nên giãn cách giữa các xe giảm xuống còn 25 đến 30 mét. Trường hợp xe bị hỏng hóc thì trưởng xe phải xuống xe để báo cho xe sau biết, tránh tình trạng đâm vào nhau. Các đồng chí rõ cả chưa?
- Rõ!- Cả đại đội đáp đồng thanh.
- Về xe! Chuẩn bị xuất phát.

Đúng như Trang đã nói, ánh trăng non đầu tháng không đủ soi tỏ mặt đường, dẫu có căng mắt ra cũng không nhìn thấy hình hài con đường thế nào. Và thế là cánh lái xe cứ ngước lên trời để điều khiển xe đi giữa hai hàng lau lách.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét