Trong khi Hòa đang vất vả chống
lại kế hoạch lấy vợ cho anh của ông chú thì Cân nhận được lá thư chia tay đầy
nước mắt của Thư. Cô hoa khôi trường huyện ngày nào viết không dài, chỉ một mực
mong Cân tha lỗi “đã không chờ đợi được anh cho đến ngày chiến thắng như lời
nguyện ước”. Thư của Tường, một thằng bạn thân thì cho biết cụ thể hơn: “Tuấn
voi đã trở về từ Liên Xô và trước sức tấn công mãnh liệt của hắn Thư đã không
đứng vững được”. Cân buồn nhưng không trách Thư. Có lẽ những năm tháng lăn lộn
ở chiến trường đã làm cho anh trở nên vị tha hơn, dễ thông cảm với mọi người
hơn thì phải. Đời người con gái như hoa nở một lần, mà chiến tranh thì chưa
biết bao giờ mới kết thúc. Và kể cả khi ngày đó đến liệu anh có còn được trở về ?
Thực ra, anh biết Tuấn voi đã theo đuổi Thư ngay từ hồi còn học phổ thông. Ngày
đó, trên bầu trời cái trường cấp 3 Tản Viên đó Cân và Tuấn nổi lên như hai ngôi
sao sáng. Cả hai đều đẹp trai, học giỏi nhưng cũng có nhiều cái trái ngược
nhau. Tuấn thì to cao nhưng có phần ngờ nghệch, trong khi đó Cân thì tầm thước
nhưng sâu sắc hơn. Tuấn học giỏi về tự nhiên, còn Cân lại thiên về xã hội. Cả
hai đều có cảm tình với Thư, cô hoa khôi của nhà trường. Sau khi tốt nghiệp phổ
thông Tuấn được chọn đi học nước ngoài, còn Cân thì vào bộ đội nhưng cả hai vẫn
tiếp tục theo đuổi Thư. Và có lẽ tâm hồn đầy lãng mạn của một cô giáo trẻ đã bị
cái vẻ hào hoa nhuốm bụi chiến trường cùng những vần thơ da diết của Cân chinh
phục. Cô đã chính thức nhận lời yêu Cân lần cô đến Trường sĩ quan Thiết giáp
thăm anh. Buổi sáng hè trên triền núi Tam Đảo hôm đó đã trở thành một kỷ niệm
đẹp trong tâm hồn hai người. Nhưng có lẽ tình yêu đó chưa đủ lớn để vượt qua những
thử thách của cuộc sống. Cân nhớ có ai đó đã từng nói đại ý: “tình yêu thì như
ngọn lửa, còn sự xa cách thì như ngọn gió. Nếu đó là một tình yêu lớn thì ngọn
gió xa cách chỉ làm cho nó bùng cháy to hơn. Còn nếu đó chỉ là ngọn lửa rơm thì
chắc chắn nó sẽ bị ngọn gió xa cách làm cho lụi tắt”. “Có lẽ chuyện của mình và
Thư là như vậy”- Cân nghĩ thế.
Tuy nhiên, Cân cũng chẳng có
nhiều thời gian để gặm nhấm nỗi buồn. Anh vừa mới được bổ nhiệm chức vụ chính
trị viên đại đội. Trước mắt anh còn hàng đống công việc phải làm mà gay go nhất
là chống đói.
Có lẽ không ai ngờ Hiệp định Pa-
ri ký kết đã được hơn năm, cuộc sống nơi hậu cứ có vẻ đã yên hàn trở lại mà bộ
đội lại bị đói quay, đói quắt. Cũng chẳng biết nguyên nhân cụ thể vì sao nhưng
có lẽ con đường tiếp vận lương thực cho chiến trường này từ trước đến nay chủ
yếu qua một cảng của nước bạn nay gặp trở ngại gì đó. Trong khi đó hình như lượng
viện trợ từ các nước anh em cũng giảm nhiều nên hàng hóa từ phía bắc chuyển vào
cũng rất nhỏ giọt. Tiêu chuẩn ăn từ sáu lạng rút xuống còn bốn lạng một ngày.
Thôi thì chẳng còn cách nào hơn là tự mình cứu mình. Thế là mọi công việc xây
dựng doanh trại, củng cố trang bị và huấn luyện bổ sung tạm gác lại. Cả mặt
trận, từ lính đến quan cứ trần lưng ra mà phát rẫy và trồng trỉa. Thôi thì đủ
thứ: lúa, ngô, sắn, bí,… cứ cái gì chống đói được là trồng tất. Khổ cái đang là
cao điểm mùa khô nên cây nào cây nấy cứ còi rí còi rị. Lính tráng còng lưng
gánh nước tưới mà trông vào những cái rẫy vẫn chẳng thấy cái màu xanh mát mắt
như trong mùa mưa. Chỉ được mấy cái rẫy ngô là tương đối tốt có lẽ vì chúng là
loại chịu được hạn. Đúng là “bàn tay ta
làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Chỉ mấy tháng sau công sức
lao động của bộ đội đã được đền bù. Bữa ăn hàng ngày được cải thiện trông thấy.
Bị cuốn vào những công việc bộn
bề của một người “anh cả” trong đơn vị, Cân dường như quên hẳn đi nỗi buồn
riêng của mình. Ngoài cái đó ra, từ ngày được trở về trực tiếp chỉ huy một
chiếc xe tăng Cân thật sự vui. Là một người lính xe tăng “nòi”, từ lúc vào bộ
đội đã gắn bó với chiếc xe tăng. Vì vậy từ ngày lên làm chính trị viên phó, mặc
dù cũng rất nhiều việc nhưng lúc nào anh cũng cảm thấy mình như người thừa
trong đơn vị. Khi đơn vị hành quân, anh em phải đánh vật với những cung đường phức
tạp, với máy bay địch ngăn chặn suốt ngày đêm thì phải tách ra đi tiền trạm.
Lúc ở hậu cứ thì loanh quanh với công tác hậu cần, tăng gia sản xuất và vài
hoạt động bề nổi của đơn vị. Khi anh em đi đánh nhau thì lại rúc ở phía sau.
Xong trận đánh rồi mới đi làm công tác thương binh, tử sỹ. Tất nhiên là cũng ác
liệt, gian khổ như mọi người nhưng dù sao được trực tiếp ngồi trên một chiếc xe
tăng mà lao vào đồn thù vẫn sướng hơn, vẫn vẻ vang hơn chứ. Với ai không biết
chứ với Cân thì được về sống với kíp xe, được cùng ăn, cùng ở với anh em, được
khoác bộ quần áo công tác lấm lem dầu mỡ, được hít cái mùi hăng hắc của khói
dầu anh như được tiếp thêm sức mạnh.
Đại đội mà Cân về làm chính trị
viên là đơn vị mới hành quân vào hồi cuối năm 1972. Vừa vào đến chiến trường
thì đã ký hiệp định Pa- ri nên họ chưa có dịp thử sức trong chiến đấu. Bộ đội
thì khỏe mạnh, trang bị đủ theo biên chế và còn khá tốt, ý chí quyết tâm thì
luôn sôi sùng sục. Tuy nhiên, Cân biết cái họ thiếu chính là kinh nghiệm chiến
đấu. Cân hy vọng rằng những gì mình thu lượm được qua các trận đánh của chiến
dịch Nguyễn Huệ sẽ giúp ích được phần nào cho anh em. Điều phấn khởi nhất đối
với Cân là không khí đoàn kết trong đơn vị. Ngay từ những ngày đầu về đơn vị
Cân đã nhanh chóng hòa đồng vào tập thể và được tất cả anh em từ ban chỉ huy
đến từng chiến sĩ trong đại đội quý mến. Đại đội trưởng Sáu Thanh, vốn dân 18
thôn Vườn Trầu theo cha ra Bắc tập kết. Hồi học “trường Trỗi” đã từng nổi tiếng
khắp vùng Chí Linh, Đông Triều về những trò nghịch ngợm, quậy phá. Nhưng khi
nhập ngũ thì đánh nhau cũng ra trò nên được chọn đi học sĩ quan. Sau khi tốt
nghiệp sĩ quan Lục quân thì được điều về binh chủng Thiết giáp. Học xong chương
trình chuyển binh chủng Thanh được giữ lại làm giáo viên nhưng anh nằng nặc đòi
về đơn vị chiến đấu. Thấy nhà trường không giải quyết anh lần mò ra tận Bộ Tư
lệnh đòi gặp thủ trưởng. Cuối cùng nguyện vọng của anh đã được đáp ứng. Thanh
sống tình cảm, phóng khoáng đúng phong cách “anh Hai” nên luôn được anh em yêu
mến, nể vì. Hôm Cân về đơn vị, vừa hạ ba lô xuống đã thấy một mâm cơm khá thịnh
soạn được dọn ra. Nói là thịnh soạn vì ngoài những món ăn nhà bếp còn có thêm
một đĩa thịt gà và một chai rượu đế. Thanh thì hồ hởi: “May quá! Tôi đang bí rì
rì. Ông về đây với tôi là tốt lắm rồi. Còn bây giờ, ngồi xuống đây nhậu đã”. Tuy nhiên, chỉ sau vài ngày về đơn vị Cân nhận
thấy rằng để xây dựng một đơn vị chính quy, nề nếp thì như thế vẫn chưa đủ.
Nhưng anh cũng tin rằng mình sẽ giúp Thanh nhanh chóng khắc phục được những
điểm yếu đó.
Về sống với anh em kíp xe 475 Cân
có cảm giác như mình được sống lại ở kíp xe 567 ngày nào. Pháo thủ Quang,
nguyên sinh viên Đại học Tổng hợp Toán năm thứ hai, tuổi chưa phải là nhiều
nhưng đã có cái chín chắn của một người biết nhiều, hiểu rộng. Đặc biệt Quang bắn
rất giỏi nên có uy tín khá cao với anh em trong kíp xe cũng như trong đại đội.
Cũng cái dáng cao lêu nghêu, lòng khòng nên giá như có cái răng vàng thì Quang
giống hệt với trưởng xe Nhã của anh. Pháo hai Đạt trẻ nhất trong kíp xe, vừa
huấn luyện được hai tháng là hành quân vào trong này. Đạt hồn nhiên, tồ tệch y
như Thắng ngày nào. Còn lái xe Đoàn thì Cân lại thấy bóng dáng Hòa trong đó.
Đoàn lém lỉnh, tháo vát, làm cái gì cũng nhanh, mỗi tội không đen như Hòa. Ở
với nhau đã lâu, luyện tập cùng nhau đã nhiều nên họ ăn ý với nhau lắm, kể cả
trong sinh hoạt cũng như trong huấn luyện. Hôm vừa rồi đoàn kiểm tra của Bộ tư
lệnh Thiết giáp vào nắm tình hình, thành tích bắn của kíp xe 475 lại cao nhất
đại đội. Ba thằng, mỗi thằng một quê nhưng cứ một điều “quê”, hai điều “quê” ngọt lịm.
Lại nói về từ “quê”. Cân nghe
thấy cái từ này lần đầu tiên khi đến thăm mấy đơn vị hành quân vào hồi cuối năm
1972. Lúc đầu, anh cứ ngỡ cả đơn vị này cùng quê hay sao ấy. Nhưng rồi dần dần
anh hiểu ra đấy chỉ là một cách gọi thân mật của anh em. Chẳng biết xuất xứ của
nó từ đâu nhưng dần dần nó lan ra toàn đoàn và trở thành món “đặc sản” của lính
xe tăng. Chỉ cần nghe gọi “Quê ơi” là biết ngay đấy là lính M26. Với ai không
biết chứ với Cân thì cái từ “quê” ấy thật thân thương, gần gũi. Chỉ một từ thôi
những nó bao hàm trong đó tất cả tình đồng chí, đồng đội, đồng hương, tình anh
em ruột thịt. Vì vậy, anh cũng dùng nó thường xuyên để gọi anh em, đồng đội của
mình. Hôm về với kíp xe, khi thấy anh em còn đang ngần ngừ chưa biết xưng hô
thế nào anh đã nháy mắt vui vẻ: “Cứ anh quê mà gọi”.
Sống trong tình thân ái của kíp
xe, của anh em trong đơn vị Cân thật sự đã quên nỗi buồn riêng của mình. Anh
thấy mình như trẻ lại vài tuổi. Trái tim tưởng như đã chai sạn vì mối tình đầu
bị lỡ dở lại rung lên. Cuốn sổ thơ đã bị bỏ bẵng mấy tháng nay lại có dịp mở
ra. Đêm hôm qua, sau khi ngồi tán gẫu với kíp xe về hầm, Cân không ngủ được.
Anh nằm miên man nghĩ về những tình cảm mà người lính xe tăng dành cho nhau.
Cái từ “quê” cứ trở đi, trở lại trong óc anh. Một tứ thơ vụt đến, Cân bật dậy ghi
liền một mạch những ý nghĩ đang tuôn trào trong đầu mình:
Chúng tôi sinh mỗi đứa một quê
Hà Bắc, Hà Tây, Hải
Hưng, Vĩnh Phú …
Đi đánh giặc tất cả
thành đồng chí
Tất cả gọi nhau
bằng một tiếng “QUÊ”
Nghe bâng khuâng
như ngọn gió trưa Hè
Nghe ngọt ngào như
vườn đày trái chín
Nghe thân thương
như đồng quê lúa mượt
Đã thương rồi, nghe
gọi thấy thương hơn.
Thức chung nhau bao
đêm dài Trường Sơn
Hứng chung nhau bao trận bom rải thảm.
Đêm mưa rừng nằm ôm nhau thấy ấm
Như ngày nào cuộn giữa ổ rơm
Quê ơi Quê! Còn gì thương hơn
Một điếu thuốc lào chia nhau chồng sái
Cơn sốt rét rừng đang lên tê tái
Bỗng ấm lòng: “Dậy ăn cháo đi Quê!”
Bốn thằng Quê chung nhau một xe
Người ta bảo chúng nó yêu nhau lắm
Gắn bó với nhau nên ngày xuất trận
Bốn đứa mình lại chung một chiến công
Chúng tôi sinh mỗi đứa một phương
Đi đánh giặc tất cả thành đồng chí
Tất cả gọi nhau bằng tiếng “QUÊ” giản dị
Có phải
vì- ĐẤT VIỆT- MỘT QUÊ CHUNG
Sáng nay dậy, đang định khoe với Sáu Thanh và mấy anh
em trong ban chỉ huy thì chuông điện thoại trong hầm “xê bộ” đổ một hồi dài.
Thanh cầm máy à, ừ một chập rồi quay ra, mặt tươi hơn hớn:
- Có việc rồi đây. Tiểu đoàn gọi tôi với hai “bê”
trưởng đi chuẩn bị chiến trường. Các ông ở nhà cho bộ đội củng cố xe cộ, huấn
luyện bổ sung và chuẩn bị sẵn sàng nhé.
Cân hơi bất ngờ vì mấy hôm trước đã được nghe phổ biến
tình hình trên đoàn bộ. Các thủ trưởng cho biết sẽ hết sức hạn chế sử dụng xe
tăng và pháo lớn trong những trận đánh nhỏ lẻ mở rộng vùng giải phóng. Như thế
này chắc là sắp đánh lớn đây. Anh cố vớt vát:
- Anh có hỏi đi chuẩn bị chiến trường ở đâu không?
Thanh cười lớn:
- Mấy ổng kín như bưng ấy. Hỏi mãi chỉ bảo cứ lên đây
rồi biết. Nhưng cứ được đi đánh nhau là sướng rồi. Nằm mãi ở đây nẫu cả người
rồi đây nè- Anh hồ hởi gọi cậu liên lạc- Xuống báo cho hai trung đội trưởng
chuẩn bị tư trang đi công tác nửa tháng. Nhớ bảo mang theo AK và lương thực.
Đúng 15 phút nữa có mặt tại đây. Nghe rõ chưa?
Cậu chiến sĩ liên lạc chạy vụt đi. Thanh quày quả chui
vào hầm chuẩn bị. Cân ngồi đấy mường tượng về cuộc chiến đấu sắp tới. Chắc chắn
đó sẽ là những trận đánh cuối cùng của cuộc chiến này.
*
Đối với Thắng, ngày hôm nay là một ngày hết sức quan
trọng. Hôm nay, các anh sẽ tổ chức bắn thử cho chiếc 923. Nếu thành công, trong
đội hình sẵn sàng chiến đấu của trung đoàn H73 sẽ có thêm một con voi thép. Còn
nếu thất bại thì chỉ còn cách “thịt” nó ra để lấy khí tài sửa chữa cho các xe
khác.
Không đến nỗi khó khăn như ở chỗ Hòa và Cân, đối với trung
đoàn H73 của Thắng thì việc làm nhà ở, lán xe và tăng gia sản xuất cải thiện
đời sống tương đối thuận lợi. Đứng chân trong vùng rừng già Bắc Tây Nguyên nên
rừng còn khá dày. Rừng ở ngay cạnh. Gỗ đấy, lồ ô đấy, tranh đấy, song mây đấy…
cần bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Mà cũng lạ cho cái giống lồ ô. Bom đạn, chất
độc hóa học tàn phá, đến lượt lính ta cây chặt đằng cây, măng đào đằng măng thế
mà nó vẫn cứ lên tầng tầng, lớp lớp dường như bên dưới gốc của nó là một sức
sống đến vô tận. Về tập kết ở đây chỉ mấy tháng toàn bộ hệ thống nhà ở, nhà ăn,
hội trường, lán xe của trung đoàn đã được xây dựng xong. Hình như có một cuộc
thi đua ngầm giữa các đơn vị thì phải nên những ngôi nhà làm sau thế nào cũng
phải có nét gì đó độc đáo, đẹp hơn những cái làm trước. Không chỉ có thế, trung
đoàn còn cho tổ chức xây dựng được một thao trường khá chính quy, có thể huấn
luyện được cả kỹ thuật và chiến thuật. Đất đai Tây Nguyên mênh mông, không quân
ngụy đã hết thời nên chẳng có gì phải quá giữ gìn như trước. Nề nếp sinh hoạt
trong đơn vị đã ít nhiều mang dáng dấp thời bình. Sáng dậy tập thể dục hô váng
cả rừng. Đi ăn cơm, đi huấn luyện cũng xếp hàng đi đều. Chiều về chơi thể thao.
Đại đội nào cũng có sân bóng chuyền và mấy bộ xà đơn, xà kép. Số còn lại thì
tăng gia. Mà đất Tây Nguyên tốt thật, cây gì cắm xuống cũng lớn như thổi. Thôi
thì đủ cả: sắn, khoai, lúa nếp, bầu bí, rau dưa… Bà con dân tộc Ba Na mấy bản
quanh đó cứ tấm tắc khen bộ đội xe tăng “trồng cây gì cũng lớn như thổi”. Ấy
thế nhưng khi vào tham quan thì họ chịu không học theo được bởi các chú bộ đội
“bón cái phân gì mà thúi quá vậy”. Cái ăn, cái ở không còn là nỗi ám ảnh dai
dẳng lính xe tăng B3 như mấy năm trước nữa. Tuy nhiên, cái khó khăn nhất đối
với H73 là công tác bảo đảm kỹ thuật.
Mặc dù không phải là chiến trường xa nhất song số xe
bị hư hỏng trên đường hành quân cũng như trong quá trình chiến đấu khá cao,
trong khi đó lượng khí tài dự bị bổ sung vào cũng không được dồi dào cho lắm.
Đại đội sửa chữa đã được thành lập nhưng chưa thật đồng bộ vì toàn là thợ đi
cùng các tiểu đoàn trước đây ghép lại. Dụng cụ thì cũng chỉ dựa vào mấy cái xe
công trình nên gặp những hư hỏng lớn cứ lúng túng như gà mắc tóc. Ban kỹ thuật
trung đoàn cũng đã được thành lập nhưng thực ra chỉ có hai người. Trưởng ban
được điều từ Phòng kỹ thuật mặt trận xuống, là kỹ sư nhưng không chuyên về tăng
thiết giáp nên hầu như mọi việc đều đổ lên đầu trợ lý kỹ thuật Thắng. Cũng may
cho anh là một lái xe lâu năm, lại chịu khó học hỏi và đặc biệt là khối kinh
nghiệm đã tích lũy được sau mấy năm làm kỹ thuật viên nên mọi việc vẫn chạy
đều. Tiếng là trợ lý cơ quan nhưng Thắng hầu như chỉ có mặt ở đại đội sửa chữa.
Trong cái khó ló ra cái khôn, rất nhiều sáng kiến được đưa ra và sau hơn một
năm phấn đấu hầu hết số xe bị hư hỏng trên đường hành quân cũng như trong các
trận đánh năm 72, 73 đã được kéo về và khôi phục đưa vào danh sách xe sẵn sàng
chiến đấu. Tuy nhiên, nói cho công bằng thì số xe đó cũng mới chỉ là “tương
đối”. Trung đoàn cũng mới chỉ khắc phục được những hư hỏng chính về phần xe máy
và vũ khí chính để có thể chiến đấu được, còn những hư hỏng phức tạp hơn như
điện đài, máy ổn định, khí tài quan sát… thì cũng đành bó tay vì lực lượng thợ
cũng như dụng cụ chưa đủ. Những khó khăn ấy Thắng đã báo cáo hết với đoàn kiểm
tra của binh chủng vừa mới vào và đã được ghi nhận. Cho đến lúc ấy Thắng chỉ
còn đau đầu với cái xe 923. Nếu giải quyết xong cái này có thể nói 100 phần
trăm xe của trung đoàn có tình trạng kỹ thuật khá, có thể tham gia chiến đấu
được.
Sở dĩ Thắng phải mất nhiều thời gian suy nghĩ về chiếc
923 này vì nó bị hỏng pháo nhưng máy móc và các bộ phận khác thì vẫn còn tốt.
Trong trận đánh vào thị xã Công Tum năm 1972, khi xung phong qua một con suối
nòng pháo của nó bị thúc vào bờ suối. Chắc là có một ít đất cát bị lọt vào nòng
pháo mà anh em không biết nên khi bắn nòng pháo bị chẻ ra như hoa muống. Ngay
sau đó kíp xe vẫn tham gia chiến đấu bằng cao xạ 12 ly 7 và đại liên. Tuy
nhiên, trận đánh đó không thành công, ta phải rút ra. Xe 923 bị trúng đạn, lái
xe hy sinh, số còn lại đều bị thương nên phải thoát ly xe đưa nhau về. Chính
Thắng đã đánh chiếc xe dắt của mình vào kéo và chật vật lắm mới đưa được nó về
hậu cứ. Tuy nhiên, từ đó nó bị coi như mất sức chiến đấu vì có mỗi thứ vũ khí chính
là khẩu pháo 100 ly lại không dùng được.
Vì việc thay nòng pháo đòi hỏi những thiết bị hạng
nặng ngoài khả năng của đơn vị nên trung đoàn đã báo cáo ra Bộ tư lệnh xin giúp
đỡ. Nhưng chắc vì quá xa, lại chỉ có một khẩu pháo hỏng không bõ đưa thiết bị
vào nên ở ngoài ấy đã điện vào tùy trung đoàn xử lý. Trưởng ban kỹ thuật thì đề
xuất: “thịt nó lấy khí tài bổ sung cho các xe khác”. Ban chỉ huy trung đoàn thì
phân vân, khí tài thì cần thật đấy nhưng phải “thịt” nó thì cũng xót. Đúng là
“bỏ thì thương, vương thì tội”. Thắng thì không đồng ý như vậy. Anh nhớ lại hôm
vào kéo xe này phải gỡ mãi mới đưa được lái xe Thưởng ra khỏi buồng lái. Anh
chết rồi mà hai tay vẫn ghì chặt cần lái. Đưa được Thưởng ra rồi, anh và cả tổ
thợ đã phải rất vất vả mới đưa được xe về hậu cứ nên Thắng phản đối quyết liệt.
Thắng gân cổ: “Đưa được một cái xe tăng vào đây đâu phải chuyện dễ dàng, cứ
động một tý lại “thịt” thì lấy đâu ra xe mà chiến đấu”. Tuy nhiên khi mọi người
hỏi phải làm thế nào thì anh lại bí và khất lần. Cảm tính thì phát biểu thế
thôi chứ đã nghĩ ra cách gì đâu. Thành ra cái nòng pháo chẻ hoa muống đó vẫn chình
ình ra đó. Bây giờ hầu hết xe cộ trong trung đoàn đã tương đối ngon lành rồi
anh mới có dịp toàn tâm, toàn ý suy nghĩ về nó.
Trong số những người ủng hộ Thắng thì nhiệt thành nhất
là Độ thợ cơ. Cậu ta cũng để tâm suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Vốn dân miền
rừng Tuyên Quang, từ bé đã theo cha săn bắn trong rừng cậu ta bảo: “cái khẩu
súng kíp của người dân tộc người ta tự làm lấy còn bắn được, huống gì khẩu pháo
này. Cứ cắt mẹ nó cái chỗ tỏe hoa muống đi là lại bắn được thôi mà”. Thắng nghe
cũng thấy có lý. Anh xuống xem xét lại thật kỹ và báo cáo với ban chỉ huy trung
đoàn. May cho Thắng, trung đoàn trưởng Lê Ngộ vốn là một cán bộ có kiến thức về
xạ kích khá sâu sắc. Nghe Thắng báo cáo xong hai thày trò xuống tận nơi nghiên
cứu, đo đạc rồi Ngộ gật gù: “Chắc chắn là bắn được tuy không chính xác như
trước vì tầm bắn sẽ giảm đi”. Suy nghĩ thêm một lúc anh bảo: “Nhưng cũng sẽ có
cách giải quyết. Lẽ ra khoảng cách 1000 thì lắp thước ngắm 10, bây giờ hụt tầm ta
lắp thước ngắm 12, 13 thì bắn vẫn trúng”. Ngay hôm đó trung đoàn đồng ý cho
Thắng cưa nòng pháo nhưng sau đó phải tổ chức bắn thử để xây dựng quy tắc bắn
riêng cho xe này. Được lời như cởi tấm lòng, Thắng cho anh em thợ cưa phần nòng
pháo vỡ đi. Như vậy nòng pháo sẽ ngắn hơn trước khoảng gần một mét. Quay pháo
thấy nặng hơn vì mất đi một đoạn nòng, Thắng cho hàn vào đó một cái mắt xích.
Thế là pháo được cân bằng, quay lên quay xuống lại êm như ru. Vậy là khá ổn.
Chỉ còn buổi bắn thử hôm nay nữa mà trúng được mục tiêu là xong.
Mặc dù suốt đêm cứ thao thức hoài nhưng ngay từ sáng
sớm Thắng đã có mặt tại thao trường của trung đoàn. Buổi sáng cao nguyên se se
lạnh, những đám sương mù mỏng mảnh đang bảng lảng bay. Đây vốn là một đồi cỏ
tranh xen lẫn với những bụi cây lúp xúp đã được trung đoàn cải tạo thành một
thao trường huấn luyện tổng hợp sau ngày ký Hiệp định Pa- ri. Tuy không thật
chính quy như ở Rừng Cam nhưng cũng đủ để huấn luyện các khoa mục bắn súng, lái
xe và tập chiến thuật đến cấp trung đội.
Xe 923 đã được kíp xe đưa ra đấy từ trước. Khẩu pháo
bị cưa ngắn nòng mất gần một mét làm giảm mất phần nào cái dáng đường bệ của
chiếc T54, trông hơi buồn cười. Kíp xe đang hiệu chỉnh sơ bộ và hoàn tất những
công việc chuẩn bị cuối cùng. Ai cũng phấn khởi nhưng vẻ mặt vẫn có một cái gì
đó rất căng thẳng. Để đánh giá thật chính xác kết quả bắn Thắng đã cho dựng tại
khoảng cách đúng 1000 mét ở đầu kia của thao trường một tấm bia hình chữ nhật
bằng khung tre, trên đó căng mấy mét vải xô chuyên dùng lau nòng pháo. Anh dự
định sẽ cho bắn thử mấy phát bằng cả đạn xuyên lẫn đạn nổ theo những thước ngắm
khác nhau. Tuy chưa biết thế nào nhưng trong thâm tâm anh tin rằng kết quả sẽ
tốt đẹp.
Công việc chuẩn bị gần xong thì cả ban chỉ huy trung
đoàn và tiểu đoàn có mặt. Vừa ở trên xe nhảy xuống chưa kịp chào hỏi gì trung
đoàn trưởng Lê Ngộ đã bước tới bắt chặt tay Thắng và niềm nở:
- Tình hình chuẩn bị đến đâu rồi?
Thắng chào hết lượt mọi người rồi mới trả lời:
- Báo cáo các thủ trưởng, mọi việc chuẩn bị đã xong.
Trung đoàn trưởng Ngộ nhìn quanh một lượt, anh gật gù
ra vẻ hài lòng và hỏi:
- Cậu báo cáo kế hoạch bắn thử xem nào.
Có vẻ như chuyện thuyết minh kế hoạch không phải là sở
trường của Thắng nên anh gãi đầu một lát
rồi mới ấp úng:
- Dạ! Tôi định cho bắn thử đạn xuyên trước rồi mới bắn
đạn nổ sau. Phát đầu tiên sẽ cho bắn theo thước ngắm 10 để xem nó sai lệch thế
nào rồi mới quyết định thước ngắm phát sau. Đại khái là như vậy!
Trưởng ban kỹ thuật gắt nhẹ:
- Thế cái kế hoạch bắn thử tôi ký hôm trước đâu sao
không đem ra mà báo cáo. Cứ ấp a, ấp úng như gà mắc tóc thế thì ai hiểu được.
Trung đoàn trưởng Ngộ dàn hòa:
- Thôi, không cần đâu. Bọn tớ hiểu rồi- Anh khoát mạnh
tay- Nếu chuẩn bị xong rồi thì cho bắn đi!
Thắng mời các thủ trưởng lên đài chỉ huy. Gọi thế cho
oai chứ thực ra đó chỉ là một mô đất được đắp cao ở ngay sau xe 923, còn anh
trèo lên đứng ngay sau tháp pháo để chỉ huy. Ngó vào trong xe thấy ai đã vào
chỗ nấy ở tư thế sẵn sàng, Thắng hô nhỏ:
- Đạn xuyên đầu nhọn, thước ngắm 1000, ngắm chính giữa
bia. Chuẩn bị!
Pháo hai Thành nhanh chóng gỡ quả đạn xuyên trên giá
xuống và lao vào buồng nòng. Khóa nòng pháo đóng nghe đánh “phập. Pháo thủ Hiên
loay hoay lấy thước ngắm thật cẩn thận rồi quay tầm hướng đưa pháo vào mục
tiêu. Trưởng xe Hào ngẩng lên:
- Báo cáo, xong!
Thắng quay sang phía đài chỉ huy cao giọng:
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi bắn đây ạ!
Trung đoàn trưởng Ngộ đưa ống nhòm lên mắt và phẩy
tay:
- Bắn đi!
Thắng cúi xuống cửa trưởng xe:
- Chú ý quan sát kết quả nhé. Bắn!
Một chớp lửa sáng lòa bùng lên phía đầu nòng. Một
tiếng nổ trầm đục vang lên. Chiếc xe giật mạnh một cái làm Thắng suýt ngã. Anh vội đứng thẳng dậy và vẫn
kịp nhìn thấy cái chấm sáng đỏ rực lao vút vào sát mép dưới chân bia. Khói
trong buồng chiến đấu mù mịt. Tiếng trưởng xe Hào vang lên:
- Đạn thấp một thân. Mà sao khói thế này?- Vừa nói Hào
vừa đưa tay bật quạt gió.
Thấy khói bốc lên nghi ngút từ cửa xe mấy cán bộ chỉ
huy trung đoàn nhốn nháo hỏi:
- Sao thế? Sao lại khói mù mịt thế kia?
Trung đoàn trưởng Ngộ vẫn bình thản:
- Các cậu cưa mất cái bọng hút khói của nó thì khói bị
dồn vào buồng chiến đấu nhiều hơn chứ sao. Không việc gì đâu, bật quạt gió lên
một tý lại thoáng ngay đấy mà- Anh đưa ống nhòm lên quan sát thêm giây lát rồi
gật đầu- Đúng như dự đoán, đạn bị hụt tầm khoảng 200 mét. Bây giờ bắn thế nào?
Thấy tình hình có vẻ ổn, Thắng nhanh nhảu:
- Báo cáo thủ trưởng, giờ chúng tôi sẽ tăng lên thước
ngắm 12 ạ.
Trung đoàn trưởng Ngộ vẫy tay:
- Thế thì bắn đi!
Sau tiếng nổ thứ hai, quả đạn xuyên vạch đường đỏ lừ
trúng giữa mục tiêu. Tất cả những người có mặt vỗ tay rào rào. Thắng định cho
bắn đạn nổ thì Ngộ bảo:
- Cậu cho anh em bắn một phát đạn xuyên nữa theo đúng
phần tử phát vừa rồi- Quay sang mấy cán bộ cùng đi anh nói như giải thích- Để
kiểm tra xem độ tản mát của nó thế nào.
Phát đạn thứ ba cũng trúng gần như vào giữa bia. Ngộ
gật đầu:
- Tốt lắm! Độ tản mát không đáng kể- Anh cao giọng-
Thắng, cho anh em chuyển sang bắn đạn nổ đi. Nhớ nhắc để ở nổ chậm và không
tháo “chóp gió” nhé!
Đến bây giờ thì Thắng đã thấy tự tin hẳn lên, anh nhắc
kíp xe:
- Đạn nổ liều nguyên, chế độ nổ chậm, không tháo chóp
gió. Thước ngắm 10, chuẩn bị!
Trung đoàn trưởng Ngộ đang nói chuyện gì với mấy người
đứng cạnh vội hét lớn:
- Sao lại bắn thước ngắm 10?
Thắng vội quay sang trả lời:
- Vừa nãy mình vẫn bắn thế mà, thủ trưởng.
Trung đoàn trưởng Ngộ vội xua tay:
- Không được! Nếu bắn thước ngắm 10, đạn gần nổ trước
bia thì nó bay mất luôn còn thử sao được nữa. Cho lấy thước ngắm 12 đi.
Thắng cười bẽn lẽn:
- Vâng ạ! Có thế mà em cũng không nghĩ ra- Anh cúi người
nhắc kíp xe- Thước ngắm 12 nhé! Chuẩn bị! Bắn!
Phát đạn trúng ngay giữa bia. Phát tiếp theo cũng vậy.
Trung đoàn trưởng Ngộ tươi cười bắt tay Thắng và kíp xe:
- Thế là được rồi. Từ nay các cậu cứ tăng thước ngắm
lên 200 cho tôi. Ngoài ra còn phải căn cứ vào quan sát kết quả bắn mà chỉnh cho
chính xác- Anh quay lại phía mấy cán bộ cùng đi- Thôi, ta về để anh em họ còn
thu dọn.
Chờ đoàn cán bộ đi khỏi Thắng phân công anh em thu dọn
đồ nghề. Anh lần lại phía đầu xe, vỗ vỗ vào cái nòng pháo cụt ngủn giọng đầy âu
yếm như đang nói với một người bạn:
- Thế mà suýt nữa mày bị người ta “thịt” mất đấy nhé!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét