Chương 16
Con tàu liên vận quốc tế lao băng băng trong màn đêm
đặc quánh với tốc độ gần 100 ki- lô- mét một giờ, nó chỉ hơi chạy chậm lại khi
qua những quãng đường cong hoặc khi vượt qua một cái ga xép nào đó. Tiếng bánh
sắt lăn qua những chỗ nối ray tạo thành những âm thanh đều đều, gấp gáp. Thỉnh
thoảng chiếc đầu tầu lại hú lên một hồi còi dài như một mũi khoan xọc về phía
trước. Bầu trời đêm phương bắc đen kịt, thỉnh thoảng mới thấy có vài ánh đèn
đường vàng vọt nhưng chúng lại nhanh chóng trôi qua bên ngoài kính cửa sổ. Đã
mười một ngày đêm đoàn cán bộ Bộ tư lệnh Thiết giáp đi học tại Học viện xe tăng
Liên Xô về bó chân trên ba cúp- pê tại toa số Hai của đoàn tàu này.
Hơn một năm trước, sau Hội nghị tổng kết các trận đánh
của tăng thiết giáp năm 1972, Binh chủng Thiết giáp đã đề nghị lên Bộ Tổng Tư
lệnh tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ cơ quan Bộ Tư lệnh được tiếp cận với các
loại hình chiến dịch với quy mô lớn hơn nhằm chuẩn bị cho thời cơ mới. Thật
không ngờ đề nghị đó đã được chấp thuận một cách nhanh chóng. Đoàn cán bộ cơ
quan Bộ tư lệnh Thiết giáp do thượng tá Vũ Huy Đào, phó tư lệnh binh chủng đã
được cử sang học tập tại Học viện xe tăng mang tên Nguyên soái Ma- li- nốp-
xki.
Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà Bộ đưa ra quyết
định ấy. Tận dụng thời cơ con đường chiến lược đã nối thông vào đến tận B2,
trong mấy tháng cuối năm 1972 và đầu năm 1973 hàng trăm xe tăng, thiết giáp đã
được đưa vào chiến trường. Ở B2 lực lượng tăng thiết giáp đã có gần hai trung
đoàn. Tại đó, đoàn M26 được thành lập và có vị trí gần như một Bộ Tư lệnh Thiết
giáp của Miền. Trên chiến trường B3 hai tiểu đoàn nữa được đưa vào kết hợp với
tiểu đoàn 297 để thành lập trung đoàn H73. Tại B1 trung đoàn N74 cũng đã được
thành lập và đã có những chiến thắng đầu tiên khá vang dội. Trung đoàn H03 đã
được nâng lên thành lữ đoàn và được chuyển thuộc cho binh đoàn Sông Hương đang
trụ vững trên địa bàn trọng điểm Trị Thiên. Đảm nhiệm khu vực nam quân khu Bốn
và chiến trường Lào, Bộ đã quyết định thành lập trung đoàn H06. Ngoài ra Bộ
cũng đã quyết định thành lập thêm lữ đoàn H15 để cùng H01 làm lực lượng dự bị
chiến lược. Sau thời gian củng cố tại Hà Tĩnh, trung đoàn H02 đã được nâng lên
thành lữ đoàn và kéo ra Thanh Hóa để tham gia vào đội hình Binh đoàn Quyết Chiến-
binh đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta. Vì vậy, việc sử dụng tăng
thiết giáp sao cho hiệu quả đòi hỏi cơ quan Bộ Tư lệnh và các đại diện binh
chủng ở mặt trận phải đạt đến một tầm cao mới.
Trước tình hình phát triển lực lượng như vậy, tại Hội
nghị tất cả các đại biểu đã thống nhất cao quan điểm: “tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ là biện pháp quyết định đến khả năng
hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị nói riêng cũng như của toàn binh chủng nói
chung”. Hội nghị cũng đã thống nhất về những biện pháp để thực hiện quan điểm
đó. Cụ thể là: “tranh thủ thời gian, cấp tốc tổ chức các lớp tập huấn, bồi
dưỡng cán bộ các cấp”. Có một điểm thuận lợi là Trường sĩ quan Thiết giáp đã
chính thức được thành lập với đầy đủ các phòng nghiệp vụ và các khoa chuyên
ngành như Chiến thuật, Pháo súng, Xe máy, Thông tin… nên việc tổ chức tập huấn,
bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ cấp phân đội khá thuận lợi. Tuy nhiên, đối với cán
bộ cấp trung, lữ đoàn và cán bộ cơ quan thì khả năng của nhà trường chưa đáp
ứng được. Vì vậy Hội nghị thống nhất đề nghị với Bộ tạo điều kiện giúp đỡ tổ
chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đối tượng này.
Như người ta thường nói: “các tư tưởng lớn thường gặp
nhau”, dường như trên Bộ cũng đã có ý định như vậy. Có lẽ những bộ óc ở Đại bản
doanh đã nhận thấy sở trường, sở đoản đội ngũ cán bộ của mình. Họ đã đi lên từ
tầm vông, giáo mác. Sở trường của họ là đánh du kích, đánh quy mô nhỏ. Thế mà
trong trận quyết đấu cuối cùng phải đánh tan cả một đội quân hàng triệu người
cùng với hàng loạt các loại vũ khí trang bị hiện đại mà quan thày của chúng tới
tấp bổ sung thì không thể giở các món võ cũ đó ra được. Đó phải là những chiến
dịch quy mô binh đoàn, liên binh đoàn tiêu diệt từng quân đoàn, từng vùng chiến
thuật của địch. Nhưng chết nỗi, đó lại chính là sở đoản của cán bộ ta. Vậy thì
không còn con đường nào khác là phải đi học. Vì vậy, Bộ đã chỉ thị cho Học viện
cấp cao liên tục tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ cấp trung, sư đoàn, đặc
biệt chú trọng ưu tiên cho các đơn vị ở phía trước. Đồng thời tổ chức đưa một
số cán bộ chỉ huy cấp chiến dịch binh chủng hợp thành và cán bộ cơ quan Bộ tư
lệnh các quân binh chủng đi tập huấn nước ngoài. Có lẽ đó là lý do chính mà đề
nghị của Bộ tư lệnh Thiết giáp được đáp ứng nhanh đến như vậy.
Gần một năm đánh vật với một chương trình học tập khá
nặng đã trôi qua nhanh chóng. Mười một ngày trước họ tạm biệt Mát- xcơ- va lên
tàu về nước. Và đêm nay, theo đúng lịch trình họ sẽ có mặt tại biên giới nước
nhà.
Trong cúp- pê thứ Nhất chỉ có hai người: phó tư lệnh Vũ
Huy Đào và tham mưu trưởng binh chủng Lê Xuân Kiệm. Phó tư lệnh Đào thì cuộn cả
tấm chăn làm gối kê cao đầu, mắt đăm đăm nhìn ra cửa sổ mặc dù chả thấy gì
ngoài một màu đen. Giường bên kia tham mưu trưởng Kiệm vẫn ngáy đều đều, bất
chấp những xóc lắc và tiếng động. Mặc dù đã quá nửa đêm nhưng ông Đào chưa hề
thấy buồn ngủ, và có lẽ cả đêm nay ông sẽ không ngủ được. Đêm nay ông và các
đồng đội của mình sẽ được trở về Tổ Quốc, trở về cái dải đất hình chữ S thân
thương mà họ đã phải tạm xa gần một năm qua. Đúng là khi đang sống trên đất
nước mình thì cảm thấy mọi cái bình thường. Chỉ đến khi sống ở nước ngoài mới
cảm nhận được nỗi niềm của những người bất đắc dĩ phải sống xa Tổ Quốc. Thật
đúng là: “Chiều chiều ra đứng bờ sau; Trông về cố quốc lòng đau chín chiều”.
Nhất là khi mảnh đất quê hương ấy còn đang ngùn ngụt lửa chiến tranh, khi người
thân của chính mình và hàng triệu đồng bào vẫn ngày đêm thấp thỏm trước cái
sống và cái chết.
Nếu tính số lần thì đây là lần xuất ngoại thứ tư của
ông Đào. Nhưng nếu tính số nước thì đây mới là nước thứ ba ông đến. Lần đầu
tiên ông dẫn hơn trăm cán bộ, chiến sĩ sang Trung Quốc học về xe tăng. Hồi đó
hòa bình mới lập lại trên miền Bắc chưa được bao lâu, không ít người vẫn còn hy
vọng vào một cuộc hiệp thương nào đó giữa hai miền Nam Bắc. Thế mà cũng đã cách
đây gần hai chục năm rồi đấy. Có lẽ cái hăng say của tuổi trẻ cộng với niềm háo
hức khi được tiếp cận với các loại trang bị vũ khí hiện đại và phương pháp quản
lý, rèn luyện bộ đội chặt chẽ của bạn đã làm cho ông và đồng đội chẳng mấy khi
có lúc rảnh rỗi mà nhớ nhà. Hai lần sau đi Lào thì áp lực của công việc, mức độ
ác liệt của chiến trường, những trận chiến đấu căng thẳng liên tục cũng làm con
người ta quên đi nỗi nhớ. Còn lần này thì khác hẳn.
Lần này ông đã được đặt chân đến đất nước Liên Xô vĩ
đại, đất nước của hòa bình, đất nước của niềm tin, chỗ dựa vững chắc không chỉ của
đất nước Việt Nam nhỏ bé của ông mà còn của cả phe xã hội chủ nghĩa nữa. Ngày
còn ở nhà qua phim ảnh, qua đài báo và các bản tin tham khảo của Thông tấn xã
Việt Nam ,
Tổng cục Chính trị ông đã hình dung ra một Liên Xô tươi đẹp và hùng mạnh. Nhưng
khi sang đến đó ông vẫn thấy bất ngờ, thậm chí còn bị “choáng ngợp”. Không chỉ
bởi sự khoáng đạt của không gian, không chỉ bởi sự kỳ vĩ của các công trình,
không chỉ bởi sự hiện đại của trang thiết bị, máy móc mà còn bởi tấm lòng bao
dung và tình cảm chân thật của những con người xô- viết mà ông đã từng gặp,
từng tiếp xúc.
Quả thật, ngay từ khi đoàn tàu vượt qua biên giới
Trung- Xô ông đã thấy ngợp bởi sự hùng vĩ của đất nước có diện tích rộng nhất
thế giới này. Đoàn tàu lao đi với tốc độ hàng trăm ki- lô- mét một giờ mà suốt
mấy ngày trời chẳng thấy làng mạc, dân cư, chỉ thấy triền miên những cánh rừng
bát ngát xen kẽ với những đầm lầy tưởng như vô tận. Ông chợt nhớ đến một câu
nói của nhà bác học nổi tiếng Lô- mô- nô- xốp mà ông đã đọc được ở đâu đó:
“Nước Nga sẽ mạnh lên từ Xi- bê- ri”. Có lẽ đúng vậy. Dưới những cánh rừng bát
ngát kia, dưới những đầm lầy dầy đặc lau sậy kia là bao tài nguyên còn đang yên
ngủ. Khi nó được đánh thức, khi nó được khai phá và sử dụng nó sẽ là nguồn sức
mạnh vô tận của đất nước này.
Hồi các ông đi đang là mùa thu. Trong khi những cánh
rừng lá kim ở Viễn Đông vẫn còn xanh rì một màu xanh bí ẩn thì những cánh rừng
sồi, rừng phong ở sâu trong nội địa đã bắt đầu mùa thay lá. Cả đoàn học viên
Việt Nam
sững sờ ngắm không chán mắt những thảm vàng kỳ bí in bóng xuống hồ Bai- Can mênh
mông. Ông như thấy đâu đó bóng dáng Lê- vi- tan đang đứng bên giá vẽ. Thật là
tuyệt vời khi được tận mắt chứng kiến “Mùa thu vàng” ở quê hương của nó.
Một cái nữa làm ông Đào thấy ngợp chính là con đường
mà đoàn của ông đang đi. Nhìn hai vệt đường ray thẳng tắp dài tít tắp vượt qua
đầm lầy, vượt qua núi cao, vượt qua rừng rậm… ông thật sự khâm phục sức lao
động vĩ đại của con người. Có quyết tâm, có lý tưởng con người ta có thể làm
được những việc tưởng chừng như không thể. Ông chợt liên tưởng đến những cung
đường Trường Sơn hiểm trở ở nhà. Đấy! Có ai ngờ trên dải Trường Sơn hùng vĩ
nhường ấy lại chằng chịt một mạng đường chiến lược lên đến hàng chục nghìn ki-
lô- mét. Có ai ngờ những chiếc xe tăng nặng hàng vài chục tấn mà nay đã có mặt
ở khắp các chiến trường… Mà về cuộc chiến tranh này thì có nhiều điều những
người nước ngoài không thể ngờ rằng những con người Việt Nam nhỏ bé, có vẻ rất hiền lành và
nhẫn nhục đã làm được. Ngay cả một số thày ở Học viện xe tăng Ma- li- nốp- xki
cũng thế.
Nghĩ đến đây ông Đào khẽ nhếch mép cười. Ngày đầu tiên
đoàn của ông đến Học viện, vừa kịp nhận phòng, đồ đạc còn bừa bộn chưa kịp sắp
xếp thì đích thân giám đốc đến thăm. Mọi người cứ cuống cả lên chẳng biết mời
giám đốc ngồi vào đâu, nước nôi thế nào… thì chính giám đốc xua tay: “Không cần
phải thế! Biết các đồng chí vừa sang, đường xa chắc là vất vả tôi chỉ xuống
thăm sức khỏe các đồng chí một chút thôi. Hôm khác Học viện sẽ tổ chức gặp gỡ
các đồng chí sau”. Theo các học viên đã từng theo học ở đây từ trước thì đó là
một sự kiện đặc biệt. Từ trước đến nay thượng tướng giám đốc Học viện chưa bao
giờ trực tiếp đến vấn an một đoàn học viên nào như thế bất kể họ đến từ quốc
gia nào. Mà cái học viện này nào có ít học viên quốc tế. Dễ có đến hơn ba mươi
quốc gia có học viên đang học tập ở đây mà trong đó có những ông lớn kếch sù về
dầu lửa. Học viên đi học mà mỗi tháng tiêu hàng xấp đô- la. Đã quán triệt với
nhau từ ở nhà là dù mình có cấp chức gì đến đó cũng chỉ là học viên nên ông và
anh em cũng hơi ngại. Tuy nhiên đến hôm Học viện tổ chức đón tiếp chính thức
thì mới vỡ lẽ: sở dĩ có sự kiện đặc biệt đó chính là vì những chiến công vang
dội của bộ đội xe tăng Việt Nam
trước đối thủ là quân đội Mỹ và đồng minh. Khi đã thân mật hơn đồng chí giám
đốc Học viện còn bá vai ông mà tâm sự: “Các đồng chí sang đây để học tập. Trách
nhiệm của chúng tôi là dạy các đồng chí. Đúng thế! Nhưng không chỉ có vậy!
Chính chúng tôi cũng sẽ học hỏi được ở các đồng chí nhiều điều. Chính các đồng
chí chứ không phải ai khác đã sử dụng xe tăng xô- viết để chiến đấu với kẻ thù chung
của chúng ta là đế quốc Mỹ và các đồng chí đã thắng. Vì thế chúng tôi cũng phải
học các đồng chí để đảm bảo nếu chiến tranh xảy ra chúng tôi cũng sẽ thắng Mỹ”.
Có lẽ có sự thống nhất chỉ đạo từ trên như vậy nên trong chương trình học tập
của lớp ông bố trí khá nhiều thời gian cho các buổi xê- mi- na. Các giáo viên
khi lên lớp cũng không truyền đạt kiểu áp đặt một chiều mà thường nêu vấn đề để
học viên phát biểu, tranh luận thoải mái rồi mới kết luận. Nhiều khi các đồng
chí đó còn hỏi han rất cặn kẽ: “Trường hợp này nếu ở Việt Nam các đồng chí sẽ xử trí thế
nào?”. Ngay cả về các loại trang bị cũng vậy. Các giáo viên kỹ thuật của bạn cứ
căn vặn: “Loại xe này sử dụng có thuận lợi không? Có ưu nhược điểm gì?” v.v…
Đặc biệt câu chuyện tăng thiết giáp của ta đấu nhau với M48 của Mỹ tại Đông Hà
và Cửa Việt được các giáo viên bạn quan tâm nhiều nhất.
Ông lại khẽ bật cười thành tiếng khi nhớ lại giờ lên
lớp đầu tiên của thiếu tướng An- tô- nốp dạy môn “Lịch sử quân sự”. Vừa vào lớp
thày đã xua tay: “Lịch sử quân sự là môn khoa học nghiên cứu các hoạt động quân
sự trong quá khứ, chủ yếu là các quy luật của chiến tranh, của đấu tranh vũ
trang nhằm rút ra những bài học thiết thực cho việc tổ chức, tiến hành chiến
tranh, xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang. Trong lĩnh vực này thì chính
Việt Nam
các bạn mới là bậc thầy. Mấy nghìn năm lịch sử của các bạn là lịch sử của các
cuộc chiến tranh giành độc lập, bảo vệ nền độc lập với đủ các loại kẻ thù. Thế
thì tôi có gì để dạy các bạn bây giờ? Vì vậy, từ nay các giờ học của tôi sẽ là
giờ chúng ta nói chuyện phiếm”. Lo lắng về kết quả học tập, sợ không vượt qua
được kỳ thi cuối khóa thì thày cười: “Các đồng chí không phải lo lắng gì! Có kỳ
sát hạch nào cao hơn những thứ các đồng chí đã trải qua ở chiến trường Việt Nam
đâu!”. Có lẽ thày cũng là người hài hước cho nên sau khi nhìn đăm đăm vào mặt
ông Đào một lát thày trịnh trọng chào: “Chào điện hạ Tổng tư lệnh!”. Ông Đào
giật thót mình lắp bắp bằng thứ tiếng Nga bất cần ngữ pháp: “Không! Tôi chỉ là
phó tư lệnh binh chủng Thiết giáp thôi ạ!”. Thày vẫn cười: “Tôi là tôi chào
Tổng tư lệnh Cu- tu- dốp cơ”. Chợt nhớ tướng quân Cu- tu- dốp cũng có ngoại
hình khá giống mình, nhất là một con mắt hỏng nên ông Đào biết là thày đùa và
cũng đỡ ngại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét