Mặc
dù khoảng cách chỉ chưa đầy hai trăm ki- lô- mét mà phải mất hơn mười ngày đêm
đại đội 9 mới đến chân dốc Con Mèo- con dốc nằm trên biên giới Lào- Việt để
chuẩn bị về Việt Nam .
Đứng ở mỏm núi phía đối diện nhìn lên
dốc Con Mèo tiểu đoàn trưởng Tân gật gù nói với mấy cán bộ dưới quyền:
- Các ông thấy không, cái dốc này có
khi còn hiểm trở hơn cả Cổng Trời ấy nhỉ?
Mấy anh em cùng lặng im ngước nhìn:
trước mặt họ là một dãy núi đá chập chùng cao ngất, những cái đỉnh nhọn hoắt
thấp thoáng ẩn hiện trong mây mù. Trên cái nền xám ngắt ấy nổi bật lên một vệt trắng
loang lổ, nham nhở của đất đá bị bom đạn cày xới ngày đêm kéo dài từ tận chân
núi lên đến hút tầm mắt. Len lỏi theo cái dải bạc phếch đó chính là con đường
B45 ngoằn ngoèo như một sợi chỉ mỏng manh sẽ đưa các anh về đất Việt Nam
trong đêm nay. Trên nền trời xanh ngắt của mùa khô Lào chiếc máy bay OV10 mỏng
mảnh như một thứ đồ chơi đang lừ lừ bay dọc theo con đường thả vào không trung
cái âm thanh vè vè cực kỳ khó chịu.
Đại đội phó kỹ thuật Vĩnh là người lên
tiếng đầu tiên:
- Tôi cho rằng con dốc này phải cao
trên một nghìn mét, mà với chất đất thế này thì chắc chắn là hiểm trở hơn Cổng
Trời rồi.
Đại đội trưởng Nghi bổ sung:
- Cổng Trời còn gần miền Bắc, đường sá
còn được tu sửa thường xuyên chứ ở đây tôi
nghĩ chắc không thể được như vậy.
Tân gặng:
- Thế theo các ông liệu ta có thể vượt
được nó trong một đêm được không?
Vĩnh cười mà như mếu:
- Không được thì cũng phải cố cho bằng
được chứ anh bảo trống hơ trống hoác thế kia mà phải nằm lại thì giấu xe ở đâu?
Lê Văn Giỏ vừa mới được bổ nhiệm làm chính trị
viên thay Tú đã hy sinh thông báo:
- Báo cáo thủ trưởng và các anh, tôi
được công binh cho biết là dốc này dài chưa đến hai mươi cây, trong đó chỉ có
chiều bên này lên là dài và khó đi thôi còn bên kia thì lại rất ngắn và ít dốc nên
có thể vượt qua được trong một đêm.
Tiểu đoàn trưởng Tân kết luận:
- Vậy thì anh Vĩnh cho kiểm tra lại
tình trạng kỹ thuật nhé, cố gắng không để xảy ra tụt lùi, đứt xích, trật xích
trên dốc. Còn anh Nghi thông báo cho các trung đội cho anh em ăn cơm sớm. Căn
cứ tình hình ta cho xuất phát càng sớm càng tốt.
Không ai ngờ là con đường còn hiểm trở
hơn cả những gì mà mấy anh em họ tưởng tượng ra. Mặt đường chỉ rộng vừa hai
băng xích, hàng trăm cái cua tay áo lớn nhỏ mà mỗi khi đi qua đó có cảm tưởng
như mũi xe đã chờm hẳn ra miệng vực. Tin vào tay lái và khả năng xử trí của Cân
nên hôm nay xe 567 được đại đội phó Vĩnh phân công đi cuối đội hình. Đêm giữa
tháng Hai âm lịch nên trăng khá sáng. Dưới ánh trăng khi tỏ, khi mờ nhiều lúc
Cân nhìn rõ những khối đất đá lăn ào ào xuống vực dưới vòng xích lăn của xe đi
trước mà phát ớn.
Mới đi được chừng một phần ba dốc thì
thằng AC130 đã mò ra. Nó lừ lừ bay dọc con đường và ung dung nghiêng ngó. Vì
đang ở trên dốc không thể phát huy tốc độ nên Nghi lệnh cho các xe ép sát vào
ta luy dương để tránh, còn tất cả thành viên chui vào trong xe đóng chặt cửa.
Sau hai vòng nghiêng ngó thằng AC130 bắt đầu bắn, đầu tiên là 20 ly, sau đó nó
chuyển sang cối 40 ly. Có vẻ như địa thế này cũng bất lợi cho việc ngắm bắn nên
đạn chủ yếu trúng vào mái ta luy. Chắc bọn trên máy bay không hiểu những mục
tiêu mà nó bắn phá là cái thứ gì mà không có đám lửa nào bùng lên cả. Khoảng
mười lăm phút sau nó lừ lừ bay về phía nam. Đoàn xe tăng lại tiếp tục lên
đường.
Càng lên cao đường càng khó đi. Nhiều
đoạn tất cả người trên xe phải xuống đi bộ, trưởng xe phải xuống đi trước đầu
xe để chỉ huy. Nhiệt độ dầu, nhiệt độ nước làm mát cứ tăng vù vù. Mặc cho cái
rét tháng Hai và những làn hơi lạnh từ trên nuí tỏa xuống lưng áo Cân vẫn ướt
đẫm mồ hôi, cậu căng mắt nhìn đường và thận trọng sử dụng hai cần lái để điều
khiển xe đi cho đúng tim đường.
Lại đến một đoạn khó đi. Cân dừng xe
cho mọi người xuống. Đại phó Vĩnh cùng mấy anh em đi bộ vượt lên trước, còn Nhã
thì khoác một mảnh dù trắng đứng trước đầu xe. Anh hỏi to:
- Nhìn rõ không?
Cân cũng gào lên át cả tiếng máy nổ:
- Nhìn rõ rồi. Đi đi!
Nhã quay người lại, anh từ từ bước
cách mũi xe chừng năm, sáu mét. Cân vừa nhìn đường vừa nhìn vào cái bóng trắng
của nhã để điều khiển xe. Gì chứ việc này thì cậu đã quá quen rồi.
Một cái cua tay áo hiện ra trước mặt.
Cân giữ chân dầu thật ổn định ở mức thấp nhẹ nhàng cho xe vào cua. Nhích từng
tý một cho đến khi đầu xe đã chờm ra ngoài mép vực và mũi xe bên trái đã qua
khỏi tảng đá lớn chìa ra từ ta luy dương thì Cân nhẹ nhàng kéo cần lái trái.
Mũi xe đã bắt đầu nhích sang trái, Cân hơi tăng chân dầu để tăng lực kéo động
cơ. Bỗng cậu cảm thấy băng xích bên phải hẫng đi một cái. Chiếc xe lạng đi và
dệ xuống. Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc sống lưng. Cân giật mạh hai cần lái
về vị trí sau cùng rồi thụp đầu xuống ôm chặt lấy hai cần lái phó mặc cho may
rủi.
Nhưng chiếc xe đã khựng lại. Ma sát
của bụng xe với mặt đất cùng với những níu kéo tuyệt vọng của băng xích bên kia
đã giữ nó lại trong tích tắc cuối cùng. Bây giờ nó nằm chênh vênh trên miệng
vực, thân xe nghiêng hẳn đi. Có cảm tưởng chỉ cần đẩy khẽ một cái là chiếc xe
sẽ lăn luôn xuống.
Đang đi phía trước Vĩnh chợt nghe
tiếng đất đá lở ào ào phía sau anh đoán ngay là có sự cố. Quay lại, nhìn chiếc
xe đang nằm chênh vênh trên miệng vực thẳm anh hết cả hồn. Vĩnh vội bảo Hòa:
- Chạy lên bảo hai xe phía trước dừng
lại đợi! Nhanh lên!
Từ trong xe Cân đang khó nhọc chui ra
vì độ nghiêng thân xe quá lớn. Bám lấy nòng pháo cậu nhô người nhìn xuống phía
dưới, không thấy gì cả ngoài một màu đen ngòm và sâu hun hút. Bát giác Cân rùng
mình: “nếu nó mà lăn xuống chắc là mình thịt nát, xương tan”. Mấy chiến sĩ công
binh hộ tống phía sau cũng đã lên đến nơi. Họ xì xầm:
- May thế! Chỉ một tý nữa thì lăn hàng
trăm vòng chứ không ít.
Vĩnh đã quay lại trước đầu xe, anh cúi
xuống bấm đèn pin nghiêng ngó: có lẽ do mỗi xe đi trước làm lở xuống một ít đất
đá nên đến xe này mép đường bên phải không còn chịu được trọng lượng của xe đã
làm cho xe bị dệ. Rất may là khi bụng xe sệt xuống mặt đất và những mắt xích
bên kia cày xuống đât đá mặt đường đã hãm lại đà trượt của chiếc xe. Anh ôn tồn
bảo Cân:
- Cứ yên tâm! Tớ sẽ cho xe kia quay
lại kéo bây giờ.
Nói thì nói vậy chứ đầu óc Vĩnh đang
rối cả lên. Với sự cố này ở chỗ khác chỉ cần một xe kéo khẽ một cái là lên.
Nhưng ở đây thì không được. Chỉ cần một chút sơ sảy, chỉ cần cái bờ đất kia lở
thêm một chút, chỉ cần cái hòn đá mà băng xích bên phải kia đang bấu víu sứt đi
một mẩu… chiếc xe này sẽ rơi xuống và lúc ấy có trời mới biết được điều gì sẽ
xảy ra. Giá như địa thế cho phép anh sẽ cho một xe cố định và một xe kéo, còn ở
đây thì không thể. Nhưng cũng không thể không kéo, để chiếc xe này nằm lại đây
cả ngày thì bằng “cống”cho lũ giặc trời.
Từ phía trước Tân, Nghi đã quay lại. Cả
ba chụm đầu bàn bạc một lúc, cuối cùng Tân kết luận:
- Kiểu gì cũng phải kéo nó lên! Ông
Nghi chỉ huy cho hai xe kia lùi lại đây. Còn ông Vĩnh nghiên cứu xem có cách
nào bảo đảm nhất thì làm.
Vĩnh nhắm mắt lại vận dụng tất cả
những kiến thức và kinh nghiệm mà anh có được để tìm ra giải pháp tốt nhất.
Cuối cùng anh đi đến quyết định sẽ cho hai xe kéo một lúc, một xe móc cáp ở
phía trước, một se móc cáp ở phía sau xe này. Như vậy chính cái cáp móc vào
phía sau sẽ có tác dụng cố định không để xe 567 tiếp tục trượt về bên kia. Anh
trình bày với Tân, Tân gật:
- Cũng phải liều thôi!
Vĩnh cho hai xe lùi sát lại đầu xe
567, huy động thêm cáp từ mấy xe trước đem nối vào và cho căng cáp. Xong xuôi
đâu đấy anh hỏi Cân:
- Cậu còn lái được không?
Đã bình tĩnh lại, nay lại nhìn thấy
phương án cứu kéo của đại phó Vĩnh tương đối chắc chắn nên Cân bình tĩnh đáp:
- Báo cáo, được ạ!
Vĩnh vỗ về:
- Thế thì lên đi! Cứ bình tĩnh nhé!
Khi nào thấy tớ ra hiệu tiến thì mới thả hai cần lái đấy. Còn nếu không may nó
tiếp tục dệ thì cũng cứ yên tâm, không rơi được đâu.
Thật may, thềm đất bên mép vực không
bị lở thêm nữa, chiếc xe từ từ bò lên mặt đường trong tiếng vỗ tay lộp độp của
tất cả mọi người có mặt. Vĩnh thở phào nhẹ nhõm. Lúc đó đã là ba giờ sáng.
Thêm gần hai tiếng nữa thì họ lên đến
đỉnh dốc. Đúng như Giỏ thông báo, chiều xuống của nó rất ngắn nên khi những tia
nắng ban mai đầu tiên hé rạng thì cả đại đội đã xuống đến chân dốc bên kia. Trước
mặt họ một bình nguyên trải dài hun hút về phía nam. Đó chính là thung lũng A
Sầu- A Lưới.
Thêm một đêm hành quân nhẹ nhàng nữa
họ đã đến điểm hẹn tại sân bay A Lưới. Khí thế toàn đại đội lên cao hừng hực:
“chả mấy nữa họ sẽ đến với thành phố Sông Hương- Núi Ngự”. Tuy nhiên phái viên
của mặt trận Trị Thiên đã đón sẵn ở đó và thông báo rất ngắn gọn: “đường về Huế
chưa thông, các đồng chí cứ nằm đây đợi đã”. Những gương mặt đang hớn hở bỗng
tiu nghỉu như bị dội một gáo nước lạnh.
Chẳng còn biết làm gì hơn cả đại đội
lầm lũi theo người dẫn đường vào giấu quân ở chân một ngọn đồi nằm ngay phía
bắc sân bay A Lưới, cách đường tuyến chừng vài trăm mét.
***
A Sầu- A Lưới là một thung lũng nằm ở
độ cao tám trăm mét so với mực nước biển, có chiều dài hơn ba chục ki- lô- mét
và chiều ngang chỗ rộng nhất chừng bốn ki- lô- mét. Nó được bao bọc xung quanh
bởi những dẫy núi cao như Động Ngài, A Ngo và A Bia… Chỉ cách Huế chưa đầy bốn
mươi ki- lô- mét theo đường chim bay, cách biên giới Việt- Lào chưa đến mười
ki- lô- mét, lại trấn giữ con đường huyết mạch Đông Trường Sơn nên A Sầu- A
Lưới có một vị trí chiến lược quan trọng. Vì vậy, ngay sau khi lên nắm quyền
Ngô Đình Diệm đã cho xây dựng ở đây một tiền đồn biên phòng của lực lượng đặc
biệt ngụy. Những năm 60 lực lượng ở đây được tăng cường và thường xuyên có cố
vấn Mỹ cũng như lực lượng đặc biệt của Mỹ tham gia trú phòng. Chúng đã xây dựng
ở đây hai sân bay quân sự dã chiến là sân bay A Lưới ở phía bắc và sân bay A
Sầu ở phía nam. Từ đây chúng tung những toán thám báo, biệt kích sang Lào và ra
phía Bắc hoạt động do thám, phá hoại các tuyến đường vận chuyển của ta. Năm
1966 ta đã tiêu diệt tiền đồn biên phòng của liên quân Việt- Mỹ và làm chủ
thung lũng A Sầu- A Lưới. Từ đó thung lũng này trở thành một căn cứ quan trọng
để ta tiến hành các hoạt động quân sự ở tây- nam Huế và khai thông con đường vận
chuyển đông Trường Sơn. Cũng từ đó nó trở thành một trọng điểm đánh phá của Mỹ-
ngụy. Hàng chục ngàn tấn bom đạn, hàng triệu lít chất độc hóa học đã được thả
xuống nơi đây để biến cái thung lũng xanh tươi này thành một “thung lũng chết”.
Những cánh rừng đại ngàn giờ chỉ còn để lại dấu tích bởi những thân cây hàng
chục người ôm đang vươn những cành cây trơ trụi không một chiếc lá lên trời như
muốn cầu xin sự cứu vớt của đấng tối cao. Cả thung lũng giờ đây chỉ còn lau
lách và ít cây non mới tái sinh bên cạnh những hố bom nham nhở. Đó là nơi trú
quân của đại đội 9.
Không xuống được Huế người buồn nhất
trong đại đội là Cân. Đối với “cậu tú” Huế từ lâu đã thành một địa danh quen
thuộc trong tâm tưởng. Đơn giản chỉ vì
thày chủ nhiệm của cậu chính là một người gốc Huế tập kết ra Bắc. Thày không
chỉ dạy cho học sinh biết về Huế qua các bài học trong chương trình mà còn
thông qua những câu chuyện về mảnh đất, con người nơi đây truyền đến cho mỗi
học sinh lòng yêu mến quê hương đến vô bờ của mình. Vì vậy khi biết sẽ được
tăng cường cho lực lượng quân giải phóng đang làm chủ Huế Cân đã như mở cờ
trong bụng, cậu chắc mẩm chỉ ngày một ngày hai sẽ được đến với vùng đất Cố đô
xinh đẹp và thơ mộng này.
Nhưng rồi cũng chẳng có thời gian mà
gặm nhấm nỗi buồn. Vừa vào đến vị trí giấu quân cả đại đội lại xoay trần ra đào
hầm, đào hố và củng cố xe pháo. Mặc dù đã được người anh em đại đội 3 bổ sung
một trung đội và nhường cho chút khí tài dự bị cuối cùng song sau hơn hai trăm
ki- lô- mét đường cực kỳ hiểm trở, qua hàng chục trọng điểm như Dốc Đá, Dốc Mèo...
đã làm cho bộ phận hành động xuống cấp nặng nề.
Lại những thứ công việc vô cùng nặng
nhọc và nhàm chán nhưng không thể không làm: đó là đào hầm và củng cố xe cộ. Có
điều may là đất ở đây khá mềm và ít lẫn đá nên đỡ vất vả. Chừng hơn một tuần
tình hình khu vực trú quân đã tạm ổn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét