Nhưng mọi cái không như dự tính, cả đại đội vón lại thành
một cục trước cây cầu Thừa Lưu đã bị phá sập. Đứng sát mố cầu nhìn dòng sông
trong xanh đang lững lờ trôi Thận lẩm bẩm:
- Số đen rồi! Lại như hôm đánh Huế thôi!
Tuy vậy, cũng có cái khác so với hôm cầu Phú Bài bị phá sập
là có một đại đội công binh của quân đoàn đang tìm cách làm ngầm cho các phương
tiện cơ giới vượt sông. Nhìn các chiến sĩ công binh bê từng sọt đất hắt xuống
lòng sông ai cũng thấy ngán ngẩm nhưng rồi cũng chẳng biết làm cách nào ngoài
việc đợi. Thận lệnh cho xe lùi lại một ít đến chỗ có mấy ngôi nhà bỏ không để nấu
cơm ăn.
Đang khí thế ầm ầm nay như bị dội một gáo nước lạnh anh
nào anh ấy buồn so. Đã thế cánh “xê Ba” lại chạy qua vẫy tay rối rít chúc: “đi
sau vào mà nhặt ống bơ nhé” lại càng tức đẫy. Chúng nó là xe lội nước mà.
Trời đã quá trưa, cái oi nồng của trời đất như làm tăng
thêm sự bức bối trong lòng người, cứ thỉnh thoảng Thận lại cho Chỉnh lên xem
công binh đã làm xong ngầm chưa nhưng lần nào anh cũng nhận được cái lắc đầu.
Nóng ruột không kém “đại trưởng”, mấy lái xe lên đầu cầu
ngồi chờ cánh công binh làm ngầm. Bỗng Trang reo lên:
- Trên kia có một cây cầu đường sắt còn nguyên kìa! Lên
xem biết đâu lại đi qua được!
Cả Hỏa, Tập, Hùng cùng nhìn theo hướng tay Trang. Đúng là
ở phía thượng nguồn cách chỗ họ đứng chừng gần trăm mét có một cây cầu dành
riêng cho xe lửa vẫn còn nguyên, nhịp cầu sắt cong cong trông còn vững chãi lắm.
Cả bọn kéo nhau chạy đến. Cây cầu vẫn còn nguyên vẹn nhưng vì là cầu đường sắt
nên không có mặt cầu, bên trên hai dầm sắt
to đùng chỉ là những thanh tà vẹt gỗ đặt cách nhau chừng sáu bảy mươi phân và
trên cùng là hai thanh đường ray thép. Trang lầm bầm tính toán:
- Về tải trọng thì không lo rồi vì cả đoàn tàu còn qua được
cơ mà. Không có mặt cầu cũng không sao vì khoảng cách giữa các thanh tà vẹt thế
xích xe tăng sẽ trườn qua được. Vấn đề còn lại là những thanh tà vẹt đó có chịu
được sức nặng của xe không thôi?
Vốn con nhà cơ
khí nên Hỏa tính cũng nhanh:
- Với chiều dài xích chạm đất gần bốn mét thì nếu xe nằm
gọn trên đó sẽ nằm trên năm thanh tà vẹt, mỗi đầu tà vẹt sẽ phải chịu lực khoảng
gần bốn tấn, tớ nghĩ nó sẽ chịu được.
Tập tham gia:
- Mà giả sử nó không chịu nổi thì xe cũng không thể rơi
xuống sông được, nó chỉ sập bụng xuống đường ray thôi, kéo lên vẫn được mà.
- Thế thì đi qua xem sao nhớ?- Trang nhìn ba đồng nghiệp
và hỏi.
Cả ba cái đầu cùng gật, Tập bảo:
- Nhưng phải báo cáo “đại trưởng” đã!
Hùng nhanh chân chạy về gọi Thận, Toàn lên xem. Sau khi
nghe các lái xe báo cáo Thận quyết định:
- Được! Cứ đi thử xem sao? Qua được thì tốt, không qua được
thì kéo lại chờ công binh. Các cậu về đưa xe lên đây!
Cả bốn cái xe đã được đánh lên gần đầu cầu, Thận chỉ
Trang:
- Cậu cho 380 qua trước đi!
Trang nhảy vào cửa lái xe, Hỏa dặn với theo:
- Chú ý căn hướng chính xác từ trước, đã vào cầu rồi thì
không chuyển hướng nữa, chân dầu cũng phải nhẹ thôi!
Trang gật đầu, những việc này đối với cậu quá quen thuộc
sau những ngày lái xe đi phục vụ sửa chữa. Trang khởi động xe rồi cho xe bò lên
mặt đường sắt, sau khi hai thanh ray đã nằm gọn trong bụng xe cậu căn hướng thật
chuẩn rồi từ từ tăng ga. Phía trước Hỏa vẫn vẫy tay rất nhẹ nhàng, mắt cậu ta
nhìn như dán vào hai băng xích. Trang giữ chân ga thật ổn định. Hai băng xích xe
đã chớm đến thanh tà vẹt thứ nhất, thứ hai,… rồi nằm gọn trên năm thanh đúng
như dự tính: không có chuyện gì xảy ra. Trang giữ nguyên chân ga cho xe đi rất
từ từ và chỉ biết là đã qua hết cầu khi tiếng vỗ tay, tiếng hò hét của cả đại đội
và cánh công binh vang lên.
Sau chừng hai mươi phút toàn đại đội đã qua hết bờ Nam,
Thận lệnh cho đại đội lên đường với tốc độ cao nhất.
Khoảng hai giờ chiều toàn đại đội đã đến chân đèo Hải
Vân, Thận cho nghỉ ngắn kiểm tra kỹ thuật trước khi vượt đèo.
Đã từng vượt qua nhiều đèo dốc trên đường hành quân từ Bắc
vào, từ A Lưới xuống nên con đèo nổi tiếng này không quá khó khăn đối với cánh
lái xe đại đội Bốn. Thực ra nó cũng khá hiểm trở, nhiều khúc cua đến chóng mặt
nhưng mặt đường lại trải nhựa và tương đối rộng nên các xe vẫn chạy được số
Hai, chỉ thỉnh thoảng mới phải về số Một ở những đoạn có độ dốc lớn. Vấn đề đặt
ra đối với họ là độ dài của đèo rất dài, những hai mươi hai cây số, riêng chiều
lên là hơn chục cây nên phải làm sao giữ cho nhiệt độ động cơ không bị quá cao.
Trang nâng ghế lái xe lên cao, cậu vừa chăm chú nhìn đường
vừa liếc mắt sang hai bên nhìn phong cảnh. Tính Trang vẫn vậy, từ bé cậu vẫn
khao khát được khám phá những vùng đất mới nên hôm nay được đặt chân tới một địa
danh nổi tiếng thế này cậu hào hứng lắm. Quả thật, lời đồn không ngoa, có những
chỗ phong cảnh đẹp đến sững sờ, nhất là ở những khúc cua trên sống núi chìa ra
phía biển: trên đầu là mây trắng bay là là, dưới tít xa kia là vịnh Tiên Sa
xanh thẳm. Trang những muốn dừng lại để ngắm nhìn nhưng trưởng xe Luông luôn mồm
nhắc tăng tốc độ không để xe trước bỏ quá xa, cậu thầm nhủ trong lòng: “rồi sẽ
phải trở lại nơi đây ít nhất một lần trong đời”.
Gần đến đỉnh đèo, trong ống kính đã thấy mấy cái lô cốt đứng
sừng sững như những tên lính gác cần mẫn, Thận lệnh cho tất cả đóng cửa sẵn
sàng chiến đấu. Tuy nhiên càng đến gần nhìn càng rõ thì thấy tất cả lô cốt đều
trống không, có lẽ người anh em “xê Ba” đã xua chúng đi rồi.
Đã đến đỉnh đèo. Mấy cái chướng ngại vật đơn giản trên đường
bị xích xe vượt qua dễ dàng. Một cái lô cốt vẫn đang cháy, hai ba khẩu pháo 105
ly đang nằm chỏng chơ, mấy cái GMC vô chủ cũng đang chúi đầu vào vách núi. Rõ
ràng đại đội Ba đã đi trước và chắc là không còn địch nên Thận hạ lệnh “lập tức
đổ đèo”.
Chiều xuống của Hải Vân hình như không hiểm trở bằng chiều
lên và cũng ngắn hơn hay là do đi được tốc độ cao không biết mà chỉ chưa đầy một
tiếng toàn đại đội đã xuống đến chân đèo, Thận tiếp tục cho đại đội tăng tốc độ.
Trời đã ngả về chiều, ánh hoàng hôn làm con đường dẫn vào
thành phố thêm thê lương, ảm đạm: những bãi tha ma chạy dài theo hai bên đường,
những nấm mộ thấp lè tè lơ thơ vài ngọn cỏ úa vàng phơ phất. Bức tượng Phật khổng
lồ trầm mặc như bất lực trước những khổ đau của chúng sinh. Những đống quần áo,
súng ống vứt bừa bãi như minh chứng cho một cuộc rút lui vội vã và bế tắc. Biết
có một đại đội đã đi trước nên Thận khá yên tâm, anh cho lái xe thò đầu để lái.
Đã đến ngoại ô thành phố. Thận đang phân vân không biết
đi theo hướng nào thì một sĩ quan tác chiến của quân đoàn đến chặn xe lại thông
báo tình hình chung và nhiệm vụ của đại đội Bốn: “Thành phố Đà Nẵng về cơ bản
đã được giải phóng, tuy nhiên ta chưa kiểm soát được hoàn toàn. Đại đội Bốn có
nhiệm vụ đánh chiếm và chốt giữ thương cảng Bạch Đằng, kiểm soát mọi sự qua lại
trên sông Hàn”. Một chiến sĩ bộ đội địa phương có nhiệm vụ dẫn đường cho đại đội
anh.
Thận lệnh cho toàn đại đội tiếp tục tiến. Đường phố đã
lên đèn nhưng vắng ngơ vắng ngắt nên tốc độ vẫn giữ được khá cao, lác đác đó
đây đã thấy những lá cờ giải phóng và những bóng áo quân phục mang băng đỏ.
Tầm tám giờ tối toàn đại đội đã đến thương cảng Bạch Đằng,
một cầu tầu bằng bê tông dài vài chục mét nằm chìa hẳn ra sông. Thận bố trí đại
đội thành đội hình chiến đấu. Trong ánh điện lờ mờ bốn cái xe tăng như bốn con
voi nằm phủ phục, bốn khẩu pháo gườm gườm chĩa xuống mặt sông, chắc chắn không
một phương tiện nào cơ động trên sông lọt qua vị trí này được. Thận quy định:
“trừ lái xe được ngủ, còn lại tất cả thay nhau canh gác”.
Gió sông Hàn mát rượi, đêm qua đã gần như không ngủ, lại
thêm một ngày vất vả nên chẳng cần ăn uống gì mấy lái xe chỉ kịp hạ ghế lái xe
xuống là chìm vào giấc ngủ.
Sáng được một lúc thì Thận nhận được lệnh cho đại đội đi
diễu hành phục vụ quay phim, chụp ảnh. Thấy Thận không thoải mái lắm người sĩ
quan đến truyền đạt mệnh lệnh ghé tai anh nói nhỏ:
- Đi phục vụ quay phim chụp ảnh chỉ là phụ, còn thực chất
là đi để biểu dương lực lượng đấy! Ông không biết chứ thành phố này phức tạp lắm,
suốt từ khi Pháp đánh chiếm đến nay nó chỉ sống với cách mạng được mấy chục
ngày hồi cách mạng tháng Tám, ngay cả năm Mậu Thân ta có đánh được vào đây đâu!
Sau khi quay phim về các ông vẫn phải nằm lại nội thành này mấy ngày nữa đấy!
Thôi thì nhiệm vụ nào cũng là nhiệm vụ, Thận bảo anh em xếp
thành đội hình rồi đi diễu qua mấy phố trung tâm. Quả thật, người dân ở đây
nhìn các anh với con mắt có phần e ngại, họ dứng nép thật sâu vào bên đường và
không niềm nở vẫy chào các anh như ở Huế.
Quay phim và diễu hành xong đã gần trưa, đại đội được
phép lui vào một con ngõ nhỏ đối diện với thương cảng Bạch Đằng. Chưa biết nếp
tẻ thế nào nên không dám vào nhà dân nhờ, Thận cho anh em nấu cơm ngay trên hè
phố.
Chắc rằng sự kiện có mấy chiếc xe tăng giải phóng nằm giữa
phố đã kích thích những người hiếu kỳ kéo đến. Lúc đầu họ còn đứng xa xa nhìn
ngó, bàn tán. Sau dần dần họ kéo đến từng xe, người thì lấy gang tay đo nòng
pháo, người thì xúm lại xem giải phóng ăn cái gì. Cuối cùng thì mỗi anh lính đều
bị một đám đông xúm quanh với hàng trăm, hàng nghìn câu hỏi.
Có lẽ đây là một tình huống nằm ngoài dự kiến, những bài
học chính trị về công tác dân vận ở vùng mới giải phóng chưa đủ để quân ta trả
lời nhiều câu hỏi “hóc búa” đại loại như: “tại sao năm 54 chúng tôi đã trả cả
miền Bắc cho các ông rồi mà các ông còn đánh vào đây?”, “cộng sản nghĩa là như
thế nào, đem cộng hết cả tài sản của mọi người lại với nhau à?”, “giải phóng rồi
thì có cho chúng tôi ở lại đây không?”…; một số cậu thấy “bí” quá đành chọn giải
pháp lỉnh vào xe ngồi tịt luôn trong đó.
Ở chỗ nấu cơm bà con cũng đang xúm đông xúm đỏ. Thấy nồi
hai mươi cơm gạo trắng tinh bốc hơi nghi ngút và mấy hộp thịt đã được bổ ra một
người chửi đổng:
- Tổ cha chúng nó! Thế ni mà biểu giải phóng ăn toàn lá sắn,
bảy người đu cọng đu đủ không gãy!
Xung quanh chính trị viên Toàn và đại đội trưởng Thận là
đông người nhất, chắc bà con cũng đoán ra đó là cán bộ nên cứ xúm lại hỏi han.
Hai người tối tăm mặt mũi vì những câu hỏi được tuôn ra tới tấp. Tiếng Đà Nẵng
đâu có dễ nghe, cứ phải hỏi đi hỏi lại hai ba lần mới hiểu lõm bõm, nhưng những
câu trả lời của các anh đã làm bà con tương đối yên lòng.
Trang ôm khẩu AK đứng ngay cạnh xe, nhiệm vụ của cậu là
không cho ai được đến gần và trèo lên xe nhưng cũng phải luôn mồm trả lời những
câu hỏi của một đám đông quanh nó. Một bà má đã già lắm rồi len sát vào Trang,
bàn tay răn reo của má túm lấy cổ áo cậu vạch ra và nghển cổ lên nhìn chăm chú.
Trang đứng bất động không hiểu bà đang nhìn gì, cậu nghĩ bụng: “chắc mặt mình bị
nhọ”. Nhưng không phải, bà má đang hỏi gì đó, Trang phải hỏi lại hai ba lần mới
hiểu:
- Các con không có “mùng” à?
Đã đọc nhiều sách và biết nhiều về phương ngữ nên Trang
hiểu bà má muốn hỏi về cái màn, cậu vội trả lời:
- Chúng con có ạ!
- Có sao để “mọi” đốt thế ni?- Bà má đưa tay chỉ vào cổ cậu.
Trang vội cúi xuống nhìn: cả một vạt từ cổ xuống đến ngực
cậu dày đặc nốt muỗi cắn như một cái bánh đa vừng. Trang chợt nhớ lại đêm qua:
vừa hạ ghế xuống là ngủ luôn, muỗi sông Hàn khủng khiếp quá. Chẳng biết làm sao
cậu đành trả lời bà má:
- Tại hôm qua con ngủ quên mắc “mùng”.
- Lần sau phải nhớ nhé! “Mọi” ở đây nhiều lắm!
- Vâng!- Mắt Trang rưng rưng, cậu chợt nhớ mẹ ở nhà.
Một thanh niên tầm mười sáu, mười bảy lại cố len vào:
- Có phải bộ đội giải phóng bị xích vào ghế ngồi trong xe
không?
- Bị xích thì chúng tôi đứng đây sao được- Trang điềm đạm
trả lời.
- Nhưng lúc đánh nhau cơ?- Anh ta vẫn cố gặng.
Trang nhìn trước nhìn sau. Quy định là không cho ai lên
xe nhưng trường hợp này thì hơi đặc biệt, cậu định tìm Thận để báo cáo nhưng thấy
anh cũng đang bị vây bởi một đám đông đến mấy chục người nên quyết định:
- Tôi sẽ cho anh lên xem có xích ở ghế không nhé! Nhưng
chỉ một người thôi!
Trang trèo lên xe đưa tay kéo người thanh niên vừa hỏi
lên, cậu mở cửa trưởng xe và cửa pháo hai rồi đưa anh ta lại chỗ cửa lái xe:
- Có thấy xích đâu không?- Trang hỏi lớn.
- Không!- Anh ta trả lời và chửi đổng- Mẹ cha bọn chúng,
toàn nói bậy.
Đám đông chỉ vãn đi lúc chiều xuống, trừ mấy pháo hai phải
lo việc nấu cơm và mấy tay ít lời chuồn vào xe ngồi, còn lại cổ đều khản đặc.
Đại đội 4 tiến vào giải phóng Đà Nẵng |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét