Hơn 10 giờ, ta đã làm chủ hoàn
toàn thị xã Phan Rang và vùng phụ cận. Mũi tiến công của đội dự bị cũng đã
chiếm được quận lỵ Phú Quý và đang hành tiến tới Cà Ná. Tuyến phòng thủ vững
chắc mà Sài Gòn đặt bao nhiêu kỳ vọng vào đó đã vỡ tan như bọt xà phòng.
Sở chỉ huy binh đoàn đã cơ động
vào thị xã và tạm đặt tại Tòa thị chính. Xe vừa dừng ông Đào đã lên đài gọi
tiểu đoàn 4:
- Tam Đảo gọi 04! Báo cáo tình
hình về ngay. 47!
Một lát sau, tiếng tiểu đoàn
trưởng vọng về nghe rõ mồn một:
- 04 báo cáo! Hiện các mũi của 04
vẫn đang chốt giữ tại sân bay Thành Sơn, cảng Ninh Chữ và nam cầu Đạo Long.
Đang phối hợp với bộ binh truy quét tàn binh địch. Báo cáo hết!
Một chút tò mò nổi lên trong đầu
ông Đào:
- Tam Đảo gọi 04! Hiện giờ anh
đang ở đâu? 47!
Tiếng Bản:
- 04 báo cáo! Hiện tôi đang ở sân
bay Thành Sơn.
Ông Đào vội bóp phát, chẳng mật
ngữ và chữ đúc nghiệp vụ gì nữa:
- Còn nhiều máy bay địch ở đó
không?
Bản trả lời ngay:
- 04 báo cáo! Chúng tôi đã sơ bộ
kiểm tra, còn hơn 30 máy bay các loại, có cái đã nổ máy rồi mà vẫn không kịp
cất cánh.
Ông Đào mừng rỡ. Thật là một kết
quả rất bất ngờ. Điều đó chứng tỏ tốc độ tiến công trong hành tiến của ta là
rất nhanh, máy bay đã nổ máy rồi mà còn không kịp cất cánh. Ông quả quyết sải
những bước dài vào ngôi nhà bề thế sơn màu kem. Ở đó, Bộ tư lệnh binh đoàn Sông
Hương cùng các phái viên đang hồ hởi triển khai vị trí làm việc trong những căn
phòng sang trọng. Đến cạnh tư lệnh binh đoàn, ông nói nhỏ:
- Tôi lên sân bay Thành Sơn, anh
nhé!
Chừng như đang mải việc nên tướng
Ân gật đầu không cần suy nghĩ:
- Vâng! Anh đi đi!- Ông Đào đã
quay đi được vài bước thì tư lệnh binh đoàn gọi giật lại- Anh Đào, tàn binh
địch còn nhiều, anh phải cẩn thận đấy!
Vừa ra đến xe, ông Đào đã giục
Năm:
- Lên sân bay Thành Sơn!
Năm nổ máy xe nhưng vẫn chần chừ. Biết là Năm không
biết đường nên ông Đào nhẹ nhàng:
- Cứ đi đi! Tớ sẽ chỉ đường cho.
Cả lái xe Năm và trợ lý chính trị Hàng đều ngơ ngác vì
nghĩ rằng đây là lần đầu thày trò họ đến đây mà sao thủ trưởng lại thông thuộc
đường sá như vậy. Ông Đào cười thầm: “Chỉ cần biết Thành Sơn nằm ở hướng tây
bắc và cạnh con đường từ Phan Rang đi Đà Lạt là tìm được đường đi ngay mà”.
Chiếc xe con lấm láp xuyên qua những đường phố lớn một
cách chậm chạp vì dòng người đổ ra đường ngày một đông. Nhiều người cầm trên
tay những lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, giữa có ngôi sao vàng. Gương mặt ai cũng hồ
hởi, tưng bừng như đã đón chờ ngày này từ lâu lắm rồi. Ông Đào thấy lâng lâng
trong ngực vì phố xá còn gần như nguyên vẹn. Âu đó cũng là một điều may mắn.
Thị xã không lớn nên chỉ một lúc sau chiếc xe đã bắt
vào đường 11 và ra đến ngoại vi. Nhà cửa đã thưa thớt dần rồi hết hẳn. Chỉ thấy
những vườn nho trải dài. Trong cái nóng buổi trưa, nhìn những chùm nho đã chín
mọng mà muốn ứa nước miếng. Trợ lý Hàng phàn nàn:
- Đúng là nóng như rang, thủ trưởng ạ.
Chợt nhớ lại suy nghĩ của mình ban sáng, ông Đào cười đồng
tình:
- Chắc vì thế mà người ta mới đặt tên nó là Phan Rang.
Câu chuyện giữa hai thày trò ngày một rôm rả. Hàng
thầm phục sự hiểu biết của thủ trưởng mình. Ông nói vanh vách về đặc điểm thổ
nhưỡng, khí hậu, thời tiết của vùng đất này như một người đã từng sống ở đây
lâu năm. Lại còn chuyện về nền văn hóa Chăm và những ngôi tháp Chàm nữa. Lái xe
Năm vừa vặn tay lái một cách điêu luyện để tránh ổ gà vừa góp chuyện. Chợt Hàng
kêu lên:
- Đằng trước có người.
Ông Đào căng mắt nhìn. Phía trước, cách chừng 500 mét,
một toán khoảng hơn chục người đang đi ngang đường. Theo phán đoán của ông thì
chỗ đó là nơi giao nhau giữa đường sắt với đường 11. Như vậy, nhóm người kia đang
đi dọc theo đường sắt về phía nam, trông họ có vẻ hơi vội vàng. Mà không chỉ có
thế, phía sau toán đi đầu còn một nhóm nữa đông hơn. Tuy nhiên, không thể nhìn
rõ trang phục. Ông Đào đang định phàn nàn về thị lực của mình thì Hàng thất
thanh:
- Hình như quân địch, thủ trưởng ạ!
Tiếng kêu của Hàng chưa dứt thì từ phía trước mấy họng
súng đã lóe lửa. Những viên đạn cày xuống mặt đường ngay trước mũi xe chiu
chíu. Phản xạ của người lính lâu năm tuy đã già nhưng vẫn còn khá nhanh nhẹn,
ông Đào cúi rạp mình xuống trước khi một viên đạn xuyên thủng tấm kính phía
trước. Lái xe Năm vừa cúi mình tránh đạn vừa bẻ hết cỡ vô lăng. Chiếc xe đang
chạy nhanh gần như quay 180 độ về phía sau làm tất cả mọi người nhao hết sang
phải. Những loạt đạn vẫn bắn theo tới tấp. Một bánh xe bị thủng lốp, xe nghiêng
hẳn về một bên. Năm nghiến răng ghì chặt tay lái, chân vẫn nhấn mạnh ga. Chiếc
xe như người bị thọt vẫn cố gắng chạy cà nhắc. Trong lúc đó Hàng loay hoay gỡ
khẩu AK cố định phía sau xuống nhưng lúng túng mãi vẫn chưa cởi được dây buộc.
Thêm một chiếc lốp nữa bị bắn thủng. Năm vẫn nhấn mạnh chân ga. Chiếc xe vẫn
lồng lên lộc cộc như xe bò. Phía trước, một toán người xuất hiện. Ông Đào căng
mắt nhìn vẫn không rõ là quân ta hay quân địch. Hàng đã gỡ được khẩu AK ra,
đang định bắn về phía sau thì ông Đào gấp gáp:
- Hàng, cậu nhìn xem phía trước là quân ta hay quân
địch?
Hàng quay ngoắt lại, chưa đầy một giây anh đã reo lên:
- Quân ta ạ!
Chiếc xe tiếp tục lết thêm vài chục mét nữa thì đã rõ
đó là một đơn vị quân ta. Họ đang lùng sục gần đó thì nghe tiếng súng nên cơ
động ra đây. Xe dừng lại, ông Đào thở ra một hơi dài. Các chiến sĩ bộ binh đã
vây chặt chiếc xe, một toán nữa thì chạy lên phía đường sắt truy đuổi bọn tàn
quân. Ông Đào bước xuống kinh ngạc nhìn hai chiếc lốp sau đã cháy đen, khói bốc
lên khét lẹt. Hàng vẫn chưa hết run. Còn cậu chiến sĩ thông tin thì tái mét
mặt. Lái xe Năm vừa thở vừa hổn hển:
- May quá, thủ trưởng nhỉ. Chỉ tý nữa thì mình chết.
Ông Đào bình thản:
- Cậu xử trí tốt lắm!
*
Trận hành tiến tiến công Phan Rang của phân đội phái
đi trước của binh đoàn Sông Hương đã thắng lợi rực rỡ. Đặc biệt, tốc độ tiến
công đạt mức kỷ lục: 70 ki- lô- mét một ngày, từ quận lỵ Du Long đến mũi Cà Ná
sạch bóng quân thù. Quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn một vạn tên địch
phòng thủ tại đây, bắt sống trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh tiền phương
quân đoàn 3, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân, chuẩn
tướng Lê Quang Lưỡng, lữ trưởng lữ dù 2 và nhiều sĩ quan, binh sỹ khác. Tuyến
phòng thủ vành ngoài tại Phan Rang mà Sài Gòn đặt nhiều kỳ vọng đã vỡ tan như
bong bóng xà phòng.
Thừa thắng, tư lệnh binh đoàn Sông Hương quyết định
tiếp tục hành tiến tiến công thị xã Phan Thiết với chủ lực là hai tiểu đoàn xe
tăng 4 và 5 . Chỉ sau 4 giờ chiến đấu, toàn bộ quân địch ở tiểu khu Bình Thuận
đã bị tan rã, thị xã Phan Thiết được giải phóng gần như nguyên vẹn.
Thấy quân ta đánh lướt qua, bọn địch ở Hàm Tân đã bỏ
chạy rồi lại quay lại kêu gào “tử thủ”. Tuy nhiên, chỉ cần tiểu đoàn xe tăng 5
cùng với một trung đoàn bộ binh quay lại trong đêm đã giải quyết xong.
Ngày 20 tháng Tư, khối một của binh đoàn Sông Hương đã
tới vị trí tập kết tại Rừng Lá sớm hơn quy định. Tư lệnh binh đoàn chỉ thị cho
các đơn vị chuẩn bị phối hợp với binh đoàn Mê- Kông tiến công Xuân Lộc. Một
không khí hết sức sôi động, khẩn trương diễn ra ở tất cả các đơn vị. Lữ trưởng
Tình, lữ phó Tại chạy như con thoi để đốc thúc đội hình xe tăng chủ lực của lữ
đoàn cơ động có mặt tại vị trí tập kết kịp thời gian quy định.
Sau vụ “chết hụt”, ông Đào thừa nhận mình có phần hơi
chủ quan. Không dấu diếm, ông đã tự phê bình rất sâu sắc trong cơ quan Bộ tư
lệnh tiền phương Thiết giáp. Ông còn nhắc các cán bộ, chiến sĩ dưới quyền phải
lấy đó làm bài học, tuyệt đối không được chủ quan, mất cảnh giác trong bất kỳ trường
hợp nào. Mà cũng chẳng phải mình ông bị như vậy, chính tướng Ân, tư lệnh binh
đoàn Sông Hương cũng bị một phen “hút chết” vì đám tàn binh. Cũng phải lái
chiếc xe xẹp lốp chạy dưới làn mưa đạn hàng mấy ki- lô- mét. Gặp nhau, cả hai
đều cười: “Chuyện nhỏ ấy mà. Mình còn cao số lắm”. Tuy nhiên, đối với Tư lệnh
cánh quân Duyên Hải thì đó không phải là chuyện nhỏ. Ông nghiêm khắc: “Tôi cấm
các anh không được chủ quan như vậy nữa. Anh nào còn để xảy ra chuyện tương tự
sẽ bị kỷ luật”.
Bị khiển trách đấy nhưng ông Đào vẫn thấy vui phơi
phới. Theo điện báo từ “nhà” vào thì 3 tiểu đoàn xe tăng bổ sung cho B2 đã vào
đến nơi với gần 100 phần trăm quân số và trang bị. Các đơn vị đi đầu của H02
cũng đã vào đến vị trí tập kết ở Bình Dương. Còn trung đoàn H73, sau khi thu
quân từ đồng bằng lên giờ cũng đã có mặt ở Dầu Tiếng. Giờ chỉ còn chờ đội hình
chính của H03 dồn về Rừng Lá nữa là lực lượng xe tăng tiến công Sài Gòn sẽ “hòm
hòm”. Ngoài ra, binh chủng cũng đã gửi thêm ba khung tiểu đoàn nữa vào Huế, Đà
Nẵng và Nha Trang để tiếp thu xe địch, khẩn trương huấn luyện và sẵn sàng bước
vào chiến đấu nếu cần. Ông Đào cảm thấy rất hài lòng về hiệu quả công tác của cán
bộ, chiến sĩ dưới quyền. Những lúc như thế này mới thấy tinh thần trách nhiệm,
hết lòng vì nhiệm vụ chung của họ. Và họ cũng linh hoạt, sáng tạo biết bao. Ông
lại tự trách mình nhiều khi đã quá khe khắt đối với họ.
*
Trước sức ép từ nhiều phía, tướng Lê Minh Đảo buộc
phải rút quân bỏ lại một thị xã Xuân Lộc đổ nát và hoang tàn. Tư lệnh cánh quân
Duyên Hải quyết định không vào trong đó mà đặt sở chỉ huy tại một ngôi chùa nhỏ
ngay cạnh ga Giá Ray ở phía bắc thị xã chừng vài ki- lô- mét. Tiền phương Thiết
giáp cũng đóng đô ngay trong khu vườn rộng rãi phía sau chùa. Ngôi chùa nằm
dưới chân một quả núi đất trơ trụi, lác đác đây đó những lò đốt than đang âm ỉ
tỏa khói. Có lẽ dân ở đây khá nghèo nên ngôi chùa cũng rất đơn sơ, không hoa
hòe hoa sói như những ngôi chùa ở các thành phố lớn khác mà các ông đã đi qua.
Tuy nhiên, ông Đào lại thấy nó thật gần gũi chính vì cái vẻ đơn sơ ấy. Nó gợi
cho ông nhớ về ngôi chùa của cái làng nhỏ mà từ đó ông đã ra đi. Thực tình, đã
lâu ông không có dịp quay về đấy nhưng hình ảnh ngôi chùa nhỏ bé, khiêm nhường
nhưng cũng hết sức cổ kính, trang nghiêm vẫn in sâu trong tiềm thức của ông. Ổn
định chỗ ở xong, ông Đào kéo phó chính ủy Thu ngược ra phía Rừng Lá để kiểm tra
tình hình cơ động của H03.
Qua khỏi Rừng Lá chừng hai ki- lô- mét về phía bắc đã
nghe trong gió tiếng gầm gào quen thuộc của những chiếc động cơ công suất lớn.
Lại thấy mặt đường rung lên nhè nhẹ, ông Đào biết đội hình xe tăng chủ lực của
H03 đã đến gần nên bảo Năm dạt xe vào một bên đường. Hai người ra khỏi xe rồi
đứng lại bên một hòn đá lớn ngay cạnh đường. Con đường quốc lộ số 1 ngay trước
mặt đang nhộn nhịp những dòng xe quân sự không ngớt tuôn chảy về phía nam.
Chiều xuống dần. Mặt trời đã khuất sau dãy núi phía
tây. Gió từ biển thổi vào xua tan dần cái nắng oi nồng làm người ta thật là dễ
chịu. Từ phía bắc, những tiếng gầm gào vọng lại ngày càng to, còn mặt đất thì rung
lên sầm sập như có một cơn động đất. Ông Đào nói nhỏ:
- Hai tiểu đoàn chủ lực của H03 đấy. Thế là hôm nay
H03 sẽ thu đủ quân về Rừng Lá rồi.
Ông Thu gật gù mái đầu điểm bạc, giọng đầy xúc cảm:
- Thật tình, nhiều lúc tôi cứ nghĩ mình nằm mơ, anh
Đào ạ.
Ông Đào gật đầu rồi cười mỉm:
- Không biết anh có tin không chứ hôm ở Đà Nẵng, đang
ngủ bất thần tỉnh dậy tôi cứ nghĩ mãi không biết mình đang nằm ở đâu. Buồn cười
thật.
Từ khúc cua phía bắc, những chiếc xe tăng đầu tiên đã
hiện ra. Trong chạng vạng hoàng hôn, ánh sáng của chiếc đèn pha hồng ngoại được
tháo kính lọc ánh sáng như một lưỡi gươm phóng về phía trước. Ông Đào lẩm bẩm:
- Mấy cậu này chủ quan thật. Sao lại tháo cả kính lọc
ánh sáng ra thế kia?
Ông Thu cười tinh quái:
- Đấy là sáng kiến của mấy cậu lái xe đấy, anh ạ- Thấy
vẻ ngơ ngác của tư lệnh, ông vội giải thích- Thì đèn pha của mình yếu, khi đi
đêm cứ bị mấy anh ô tô ngược chiều đèn sáng hơn rọi vào làm lóa mắt không chạy
được. Thế là anh em họ nghĩ ra cái bài này để chế áp. Từ hôm ấy, cứ thấy cái
đèn này chiếu đến đâu là cánh lái xe ngược chiều đều biết điều dạt vào cho xa
để nhường đường.
Ông Đào cũng bật cười:
- Lính ta thế mà lắm trò thật.
Những chiếc xe tăng đầu tiên đã đến ngang chỗ hai
người đứng. Đường tốt, đèn sáng nên mặc dù đã tối chúng vẫn chạy với tốc độ rất
cao, dễ phải đến trên 40 ki- lô- mét một giờ. Lá cờ giải phóng cắm trên ngọn ăn
ten cứ ngả rạp ra phía sau bay phấp phới. Đất dưới chân hai người thì rung lên
bần bật. Tiếng động cơ, tiếng xích sắt nghiến trên đường át đi mọi tiếng động.
Hai người lính già đứng lặng đi trong niềm xúc động, tự hào. Tranh thủ lúc cự
ly giữa hai xe đi liền nhau hơi xa một chút, ông Thu ghé sát vào tai ông Đào:
- Anh có thấy đúng như một cơn bão không?
Ông Đào trầm ngâm một lát rồi mới trả lời:
- Đúng! Nhưng đó là một cơn bão thép!
Đoàn xe tăng hơn bốn chục chiếc đã đi qua, hai người
vẫn đứng yên tại chỗ. Chừng như những cảm xúc trong lòng vẫn chưa kịp lắng
xuống, phó chính ủy Thu hào hứng:
- Cứ thế này thì Sài Gòn làm sao mà đứng vững nổi. Anh
có thấy đúng như cụ Ức Trai đã viết không?- Ông hắng giọng rồi dằn từng tiếng,
tay thì vung vẩy như đang trình diễn trên sân khấu- Đánh một trận sạch không
kình ngạc. Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to quét sạch lá khô. Tổ
kiến hổng sụt toang đê vỡ. Hay, hay thật!
Ông Đào gật gù:
- Công nhận là hay và rất hợp với tình thế bây giờ.
Tuy nhiên, theo ý tôi thì các cụ nhà ta dịch mấy câu này chưa sát nghĩa cho lắm.
Vẫn biết vốn Hán học của ông Đào khá uyên thâm nhưng
lần này mới thấy ông nói chuyện văn chương nên phó chính ủy Thu tỏ vẻ ngạc
nhiên:
- Anh nói lại xem nào. Dịch như thế là hay quá rồi,
còn gì gì nữa?
Ông Đào cười nhẹ:
- Thì tôi có nói là không hay đâu. Tôi chỉ bảo là chưa
sát nghĩa lắm. Nghĩa là chưa lột tả được hết cái ý của Ức Trai tiên sinh thôi-
Trầm ngâm một lát ông mới chậm rãi- Câu này, trong nguyên bản Ức Trai viết là
“Chấn cương phong ư cảo diệp”. “Chấn cương phong” mà dịch là “Cơn gió to” thì
cũng được nhưng chưa hết ý, có vẻ hiền lành quá.
Ông Thu thích thú nhìn người bạn lâu năm:
- Thế theo anh phải dịch thế nào mới sát?
Ông Đào thủng thẳng dằn từng tiếng:
- Phải dịch là “Trận cuồng
phong”.
Ngẫm nghĩ một lát ông Thu thốt
lên:
- Đúng! Phải là “Trận cuồng
phong” mới sát nghĩa và hợp cảnh hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét